Theo lời Peter Cappelli, giám đốc quản lý của Wharton thì nhược điểm trong
việc quản lý các yêu cầu vềnhân tài “ngang bằng với nhược điểm trong việc quản
lý chuỗi cung ứng của bạn”. Còn hiện nay, theo thời gian, hầu hết các ông chủdoanh
nghiệp đều có được những kinh nghiệm vô giá vềviệc tìm kiếm và giữchân người giỏi.
Ông cho biết những nhà quản lý chuỗi cung ứng “luôn hỏi những câu hỏi như
‘Chúng ta có những bộphận phù hợp trong kho không?, ‘Chúng ta có biết nơi nào để
có được những phần đó khi chúng ta cần không?, hay ‘Có cần đầu tưnhiều tiền để
thực hiện việc kiểm kê hay không?’. Những câu hỏi đó thường chỉliên quan tới những
công ty đang cốgắng đểquản lý được các yêu cầu vềnhân tài của họ.”. Vậy nên nói
một cách khác các nguyên lý của quản lý chuỗi cung ứng, với tầm quan trọng của nó
trong việc sản xuất theo công đoạn, đều có thể được áp dụng cho việc quản lý nhân
tài.
11 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1037 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Nhân tài theo nhu cầu: Áp dụng quản lý chuỗi cung ứng vào con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhân tài theo nhu cầu: Áp dụng quản lý chuỗi
cung ứng vào con người
Theo lời Peter Cappelli, giám đốc quản lý của Wharton thì nhược điểm trong
việc quản lý các yêu cầu về nhân tài “ngang bằng với nhược điểm trong việc quản
lý chuỗi cung ứng của bạn”. Còn hiện nay, theo thời gian, hầu hết các ông chủ doanh
nghiệp đều có được những kinh nghiệm vô giá về việc tìm kiếm và giữ chân người giỏi.
Ông cho biết những nhà quản lý chuỗi cung ứng “luôn hỏi những câu hỏi như
‘Chúng ta có những bộ phận phù hợp trong kho không?, ‘Chúng ta có biết nơi nào để
có được những phần đó khi chúng ta cần không?, hay ‘Có cần đầu tư nhiều tiền để
thực hiện việc kiểm kê hay không?’. Những câu hỏi đó thường chỉ liên quan tới những
công ty đang cố gắng để quản lý được các yêu cầu về nhân tài của họ.”. Vậy nên nói
một cách khác các nguyên lý của quản lý chuỗi cung ứng, với tầm quan trọng của nó
trong việc sản xuất theo công đoạn, đều có thể được áp dụng cho việc quản lý nhân
tài.
Và theo Cappelli thì: “Đây là một mô hình khác biệt hoàn toàn trong việc suy
nghĩ về nhân tài”. Theo học thuyết của ông đưa ra thì ông đã xác định rõ được chứng
bệnh chủ yếu về lĩnh vực quản trị nhân sự, cái đó nó là “cảm giác quá nhạy cảm, mềm
mại cùng với chút khả năng ứng dụng vào các vấn đề kinh doanh. Thực tế đặc thù
công việc quản trị nhân sự là đáp ứng các nhu cầu của các cá nhân, nắm bắt được diễn
biến tâm lý mà họ thấy phù hợp cũng như nên thực hiện điều gì để giúp cho họ phát
triển và nâng cao. Nhưng nếu bạn là một người thuê lao động lo lắng về những vấn đề
phát sinh kiểu như các rắc rối tài chính của công ty thì bạn phải nhờ vào quản trị nhân
sự để đánh giá được những nhân viên mà bạn đã mất tiền và chi phí tuyển dụng, và
điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không có được đúng những người phù hợp vào làm những
công việc cần thiết.”
Cappelli cũng lưu ý rằng những người tập trung vào quản lý chuỗi cung ứng
luôn phải giải quyết những kiểu câu hỏi như vậy suốt ngày. Ông cho rằng: “Việc quản
lý các chuỗi cung ứng thực ra là quản lý tình trạng không rõ ràng và hay thay đổi. Sự
không rõ ràng giống nhau này tồn tại trong các công ty cùng với việc quan tâm tới việc
phát triển nhân tài. Các công ty hiếm ít biết được cái họ sẽ xây dựng trong năm năm
tới hay họ cần những kỹ năng nào để làm cho điều đó xảy ra; họ cũng không biết liệu
những người mà họ có trong các nguồn của mình sẽ còn phát huy được không.”
Và điều quan trọng của vấn đề đó là nhiều công ty đã bị dồn vào theo một mô
hình cũ rích dựa trên giả định rằng chúng có thể đáp ứng được xác đáng các nhu cầu
về nhân tài của mình thông qua các mô hình dự đoán và lập kế hoạch tĩnh, mặc dù thị
trường toàn cầu là một môi trường ngày càng khốc liệt và không thể dự đoán được.
Cappelli giải thích rằng: “Ý tưởng mà chúng ta có thế có được chắc chắn thông qua
việc lập kế hoạch thực ra không còn đúng nữa. Thay vào đó, chúng ta phải giải quyết
tình trạng không rõ ràng này bằng cách trở nên thích nghi và phản ứng nhanh hơn.”
Việc ngồi yên trên kệ
Cụm từ “quản lý nhân tài” đơn giản chỉ có nghĩa là “cố gắng để dự đoán được
cái chúng ta sẽ phải cần và sau đó là lập kế hoạch để đáp ứng được nhu cầu đó”,
Cappelli giải thích và theo ông thì định nghĩa về quản lý chuỗi cung ứng về cơ bản
cũng giống như vậy: “Chúng ta nghĩ rằng nhu cầu về các sản phẩm của chúng ta trong
năm tới phải đạt được là ‘X’. Vậy chúng ta tổ chức nội tại như thế nào để đáp ứng
được nhu cầu đó? “
Vấn đề cơ bản về chuỗi cung ứng đó chính là việc phát sinh về kiểm kê, điều
mà trong điều kiện quản lý nhân tài thường nảy sinh khi những người thuê lao động
bàn về việc có được một “sự hiểu biết thấu đáo” về nhân tài. Chính thế mà Cappelli
nói rằng: “Bạn nghe thấy cụm từ này rất nhiều – ‘chúng ta có một sự hiểu biết thấu
đáo’, hoặc ‘chúng ta có cả một nguồn nhân tài lớn’ – và điều này được nói với lòng tự
hào. Nhưng nếu bạn nghĩ về nó trong điều kiện chuỗi cung ứng thì một sự hiểu biết
thấu đáo là ngang bằng với việc kiểm kê rất nhiều, mà điều đó dường như thật kinh
khủng khi chúng ta nghĩ tới các sản phẩm. Thực tế, nó càng trở nên tồi tệ hơn khi
chúng ta bàn về nhân tài. Đó là bởi vì một sự kiểm kê về nhân tài là mất nhiều chi phí
hơn là một sự kiểm kê về các mặt hàng. Nhân tài không chỉ ngồi yên trên kệ như các
mặt hàng. Bạn lại phải luôn chú tâm vào nhân tài và cách tốt nhất để nhân tài rời bỏ
bạn đó là hãy để nó ngồi yên một chỗ và chờ đợi cơ hội. Thế nên, bất kỳ ai có tham
vọng cũng sẽ ra đi, và rồi, sau chính bạn lại bị mất đi một khoản đầu tư lớn lúc trước
mà bạn đã tập trung vào cho người đó.”
Việc tránh dồn kiểm kê lại có liên quan trực tiếp tới các những nỗ lực của các
công ty nhằm quản lý được tình trạng không rõ ràng xung quanh các yêu cầu về nhân
tài của họ. Cappelli cho rằng: “Giả sử một công ty dự đoán rằng nó sẽ cần 100 kỹ sư
mới trong năm đó. Nhưng chưa một ai từng đặt câu hỏi: ‘Làm thế nào để tính ra được
sự ước đoán đó?’ Và thế là nó cứ xoay vòng, sự ước đoán đó hầu hết là luôn sai bởi vì
các nhu cầu hoạt động kinh doanh rất khó để dự đoán được. Vì vậy mà nó tiếp tục
được đặt ra câu hỏi tiếp theo: ‘Điều gì xảy ra nếu chúng ta mắc sai lầm?’ Bạn có thể
mắc sai lầm theo một trong hai hướng: hướng thứ nhất là bạn có thể có được nhiều kỹ
sư cần thiết hơn bạn nghĩ và như vậy bạn sẽ phải hoặc tiếp nhận họ hoặc sa thải họ;
còn hướng thứ hai đó là bạn có thể có được ít kỹ sư cần thiết hơn bạn nghĩ và như vậy
thì bạn lại phải góp nhặt để tìm thêm cho đủ người. Và câu hỏi tiếp theo: ‘Trong từng
trường hợp chúng ta đầu tư cho cái gì vậy? Và liệu chi phí đó có quá nhiều hoặc quá ít
không?’ Và thường thì hầu hết trường hợp này là bị mắc sai lầm nhiều hơn so với cái
khác.”
Nếu các công ty bắt đầu suy nghĩ về điều gì làm lợi thế trở nên sai lầm cũng
như cái gì được kết hợp với các chi phí, “thì sau đó họ sẽ biết cách nào để đánh cược
và họ sẽ giảm đáng kể việc để mất quá nhiều tiền như kiểu trẻ con của mình”, Cappelli
cho biết.
Từ đó chúng ta thấy thách thức chính là hãy làm giảm lợi thế của việc mắc sai
lầm. Điều đó cho thấy được kỹ thuật khác từ việc vận trù học – đó chính là phương
pháp danh mục mà mục đích của nó là để giảm thiểu tính biến thiên xảy ra khi những
thị trường khác nhau được dẫn dắt theo những hướng khác nhau. Trong thế giới tài
chính, các nhà đầu tư tạo nên một danh mục các khoản đầu tư khác nhau mà một vài
khoản dường như trở nên tốt hơn trong khi những cái khác lại xấu đi nhằm giảm bớt
sự lan truyền rủi ro toàn diện của chúng. Được áp dụng vào quản lý nhân tài, khái
niệm đó có nghĩa cân bằng hoàn toàn các loại rủi ro có thể xảy ra, ví dụ như khi những
các bộ phận khác nhau trong một tổ chức lớn có tính phân tán cao cùng cố gắng dự
đoán con số những người bán hàng (hoặc các nhà quản lý tổng hợp, các kỹ sư, v.v...)
thì mỗi bộ phận đều nghĩ nó sẽ phải cần đến. Và Cappelli giải thích rằng: “Một số bộ
phận sẽ tính cần tới quá nhiều người bán hàng, và một số lại quá ít, nhưng nếu bạn
tham gia vào những bộ phận khác nhau đó theo khía cạnh thuê người thì dường như
những sự biến đổi đó sẽ bị giảm gần hết hơn là được nhân lên. Vấn đề ở đây chính là
các công ty đó bị phân tán nhiều tới mức thậm chí họ đã phải ngừng suy nghĩ về việc
làm thế nào để sắp xếp được các vấn đề về nhân tài theo các bộ phận.”
Và như ông đã viết trong cuốn sách của mình thì: “Theo ngôn ngữ của vận trù
học và quản lý chuỗi cung ứng, các vấn đề về sự cung cấp quá thiếu và sự cung cấp
quá thừa được biết một cách chung chung là ‘những chi phí không phù hợp’.” Giải
pháp danh mục chỉ rõ được vấn đề không phù hợp bằng việc khuyến khích các công ty
phối hợp những nỗ lực phát triển nhân tài khác nhau thành một chương trình phổ biến.
Và khi một số bộ phận phóng đại nhu cầu hay những bộ phận khác không đưa ra được
nhu cầu thì “công ty lúc đó có thể bù lấp cho sự không phù hợp bằng cách luân chuyển
những người xin việc.”
Việc giảm bớt các nút thắt cổ chai là một khái niệm chuỗi cung ứng khác liên
quan tới nhân tài theo nhu cầu. Chẳng hạn như CIA từng gặp vấn đề này khi nó phải
đối mặt với một bản danh sách chờ đợi hai năm để có được người thông qua những kỳ
sát hạch an ninh. Và theo Cappelli thì: “Những người mới được tuyển dụng đều bị xếp
vào hàng đợi mà không có việc gì để làm, đây hoàn toàn là cách mà hàng hóa có thể
được xếp vào hàng đợi trong một dây chuyền lắp ráp kỹ thuật. Mà quan trọng hãy nhớ
rằng dây chuyền lắp ráp kỹ thuật có thể chỉ chuyển động nhanh bằng bộ phận chậm
nhất.”
Trong trường hợp của CIA, bởi nó đã không đủ khả năng làm tăng lên dòng
người thông qua an ninh, và như vậy câu hỏi sẽ là: Tại sao nó lại phải thuê quá nhiều
người như vậy, dẫu biết rằng họ không thể di chuyển ngay hết được qua nút thắt cổ
chai? Và Cappelli cho rằng: “Tổ chức không nên thực hiện việc thuê nhiều người cùng
một lúc. Bạn nhận thấy điều này ở nhiều công ty, kể cả những công ty chỉ tuyển người
có một năm một lần, giống như những người vừa tốt nghiệp đại học. Giả sử họ tuyển
dụng 50 người tốt nghiệp vào tháng sáu theo các ngạch đào tạo. Vào cuối năm, họ có
được 50 người đang mong chờ để chuyển từ chương trình đào tạo sang những vị trí
bền vững hơn. Vậy tại sao người thuê lao động không đảo lại quá trình này và thuê
người thành hai lần một năm thay cho có một lần thôi? Bởi không phải tất cả những
người vừa tốt nghiệp đều thích bắt đầu đi làm vào tháng sáu, một số người thích đi du
lịch còn một số khác thì thích bắt đầu đi làm muộn hơn.” Ưu điểm của việc đảo chiều
việc tuyển dụng đó là công ty sau chỉ cần tuyển thêm một nửa số các vị trí được đào
tạo và quan trọng hơn là có thể điều chỉnh được số lượng tuyển dụng vào thời điểm sát
với theo những thay đổi về nhu cầu.
Những thực thế vận trù học khác mà Cappelli nhắc tới có liên quan đến việc
phát triển nhân tài bao gồm việc rút ngắn chu trình dự đoán, tổ chức lại việc phân bổ
các chương trình phát triển nhằm nâng cao khả năng phản ứng và cả việc giải quyết
“các vấn đề về hàng đợi”. Các vấn đề về hàng đợi thường xảy ra trong những trường
hợp mà những người lao động đang chờ để nhận việc luân chuyển nhưng không thể có
được bởi những người đương nhiệm không thấy cần phải bổ khuyết vào, và những lý
do có thể là do sự sụt giảm trong công việc kinh doanh, thay đổi về thời gian bổ nhiệm
hoặc một sự trù tính lại sản xuất. “Sự tương tự trong việc sản xuất là một ‘dây chuyền
(lắp ráp kỹ thuật) không cân bằng’, mà trong đó việc kiểm kê được gom dần lại sau
tình trạng chuyển động chậm hơn, hoặc trong trường hợp này, việc phân công công
việc mất nhiều thời gian hơn mới hoàn thành được.”
Phá sản thay vì bùng nổ
Ngày nay nhiều cái gọi là những ý tưởng mới trong quản lý nhân tài như phản
hồi 360 độ, các trung tâm đánh giá, sự luân chuyển công việc và đặc biệt là lập kế
hoạch thành công dài hạn đều trở nên phổ biến trong thời kỳ hoàng kim của những tập
đoàn khổng lồ cùng với sự phát triển bền vững ngay sau cuộc Thế chiến thứ 2, và theo
giám đốc Trung tâm về Quản trị Nhân sự của trường Wharton, Cappelli nhận xét thì:
“Môi trường hoạt động kinh doanh hiện nay đang phải chịu đựng chút ít tương tự như
đối với các trạm gác trong thời kỳ Thế chiến thứ 2, điều đó giải thích được tại sao
phương pháp dựa vào lập kế hoạch không còn tạo được ý nghĩ nữa.”
Những năm 1970 đã là một thời điểm như vậy, khi đó các công ty đã cẩn thận
phác thảo ra những kế hoạch cho việc phát triển nhân tài mà rốt cuộc cũng bị sai lầm
hoàn toàn. Cappelli nói: “Mọi người ai cũng mong chờ nền kinh tế bùng nổ mà thực tế
thì nó lại nằm im. Những người thuê lao động đã đầu tư rất nhiều vào nhân tài nhưng
họ đã không thể sử dụng được, điều đó dẫn tới một sư buông thả chung đối với việc
quản lý nhân tài nội bộ.” Tình trạng suy thoái kinh tế sớm cùng với làn sóng thay đổi
kỹ thuật của những năm 1980 đã chuyển đổi điều này. “Các công ty sa thải một số
lượng lớn những người lao động, điều đó có nghĩa rằng không còn ký ức về cơ quan
trong những người lao động. Đó là khi mọi người bắt đầu phát minh lại những thực tế
đã trở nên phổ biến trong những năm 1950.”
Còn trong những năm 1990, Cappelli cho biết, các công ty lại quay sang thuê
làm bên ngoài theo, và thấy hứng thú một phần bởi số lượng lớn những người lao động
bị sa thải là tàn dư từ những năm 1980, và một phần là bởi khả năng thuê được những
người công nhân “vừa đúng lúc”. Nhưng những người thuê lao động cũng bắt đầu theo
những người vừa rời khỏi các đối thủ cạnh trạnh của mình, và thế là một trò chơi đã
tạo ra những vấn đề về giữ chân nhân viên và thường được kết thúc bằng một sự lôi
kéo tốn kém một khi ngày càng có nhiều công ty cùng bắt đầu tham gia chơi. Thêm
vào đó, các tổ chức cũng nhận thấy rằng việc thuê làm bên ngoài không làm được gì
để cải thiện được tinh thần cho những người ở trong công ty, những người nhận thấy
những người mới đang thu được lợi qua mình.
Các công ty giờ đều đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan: nói
một cách khác, rất khó để có được lợi nhuận từ việc đầu tư vào phát triển nhân tài khi
những ưu tiên đột nhiên thay đổi và những người lao động thay đổi công việc vài năm
một lần thay cho một hoặc hai lần trong cả một sự nghiệp. Nhưng việc làm cho không
có sự phát triển nội tại và chỉ tin vào việc thuê làm bên ngoài cũng khó giải quyết khi
mà nó để cho người thuê lao động dễ bị tấn công bởi những ý thích chợt nảy sinh của
thị trường lao động. Và theo Cappelli thì: “Cái chúng ta cần là một cách giải quyết tình
trạng không rõ ràng về các nhu cầu hoạt động kinh doanh cũng như tình trạng không
rõ ràng về những nguồn nhân tài nội tại.”, và ông cũng lưu ý rằng sự lựa chọn không
chỉ giữa việc phát triển nhân tài theo cách nội tại hoặc việc thuê làm từ bên ngoài.
Nhưng sự lựa chọn tốt hơn đó là để làm được cả hai: hãy sử dụng các mô hình phù hợp
hơn về phát triển nội tại mà bao gồm cả việc có được những người lao động nhằm
giảm bớt chi phí, và rồi sau đó sử dụng những người thuê làm bên ngoài để lấp đầy
vào những chỗ thâm hụt khi các dự đoán chắc chắn chứng minh sai.
Những công ty đang chuyển dịch theo định hướng mới này kể cả những công ty
mới bắt đầu thì đều phải có một danh sách công việc rõ ràng như đối với những thực tế
về phát triển nhân tài, còn những hãng dịch vụ chuyên nghiệp, nơi luôn có được sự pha
trộn nhân tài phù hợp là đặc biệt quan trọng. Cappelli nói: “Các hãng tư vấn, các hãng
kiểm toán, các hãng luật và tất cả đều đã bắt đầu cố gắng để tính được chi phí của việc
quay lại quản lý nhân tài nghèo nàn vào năm 1990 khi thị trường lao động cũng đã trở
nên căng thẳng do nhu cầu liên tục tuyển thêm người mới, vậy nên họ biết rằng khả
năng cạnh tranh của họ chỉ có thể được dàn xếp một cách khốc liệt bằng việc xoay
vòng công việc cao.” Đặc biệt các hãng ở Ấn Độ, nơi có thể là những người lãnh đạo
suy nghĩ về việc quản lý nhân tài theo các cách mới bởi nhu cầu nhân tài ở đất nước
này quá khốc liệt, ông cho biết thêm.
‘Ngày phép tự nguyện’ của Cisco
Cappelli đã đưa ra các quá trình quản lý nhân tài tại một số công ty bao gồm
như Unilever, IBM, General Electric, EDS, Dow, Capital One, Citibank, Corning,
Johnson & Johnson và Bear Stearns, nhằm trình bày rõ hơn.
Ông mô tả mô hình dự đoán tinh vi ở Dow, cái đã biết kết hợp chặt chẽ việc dự
đoán dựa trên thống kê truyền thống với các yếu tố chẳng hạn như xu thế hoạt động
kinh doanh và chính trị tại mỗi quốc gia mà Dow đặt sự điều hành, những thay đổi
trong luật lao động và việc làm, cùng với những kế hoạch kinh doanh cho những đơn
vị đang điều hành. Cappelli viết rằng: “Những hệ thống chuẩn làm cho nó có thể kết
hợp được những đánh giá cá nhân thành một dự án tổng thể cho công ty.“
Tại Capital One, nơi thách thức là phải giúp được công ty lập kế hoạch cho
nguồn lao động của mình, đang đi từ 20.000 nhân viên năm 2001 xuống còn 14.000
nhân viên năm 2005 và tới năm 2007 là 30.000 nhân viên sau một loạt các yêu cầu,
công ty đã phải tập hợp một đội gồm các chuyên gia về nghiên cứu tiếp thị và điều
hành sản xuất nhưng tuyệt nhiên không có ai từ chức năng quản trị nhân sự truyền
thống. Nhóm đã sử dụng các kỹ thuật phân tích dữ liệu, các mô hình sản xuất và thông
tin từ hệ thống PeopleSoft của mình để tạo ra những mô hình lên kế hoạch nhân tài
cho từng đơn vị kinh doanh. “Không chỉ dự đoán được số người được yêu cầu trong
từng vai trò, họ còn dựng được những mô hình cho biết các kết quả chẳng hạn như tỷ
lệ suy yếu về lòng tin, tinh thần làm việc, tỷ lệ về sự khuyến khích hay tỷ lệ về những
người thuê làm bên ngoài.” Thay đổi lớn ở cả hai công ty này chính là những mô hình
đó đã bỏ qua được việc dự đoán truyền thống và hướng sự mô phỏng vào giải quyết
tình trạng không rõ ràng trong hoạt động kinh doanh. Mà theo Cappelli thì: “Hơn vì
việc tạo được một sự đánh giá tĩnh về việc bao nhiêu công nhân sẽ được cần trong hai
năm tới, họ lại nói với những nhà quản lý sản xuất rằng: ‘Hãy nói cho chúng tôi về
những giả định mà theo các ngài cần phải có cho công việc kinh doanh của mình, còn
chúng tôi sẽ đưa cho các ngài một bản đánh giá nhân tài. Nhưng tốt hơn thì hãy đưa
cho chúng tôi cả một loạt những giả định khác nhau, còn chúng tôi sẽ đưa cho các ngài
một loạt những bản đánh giá nhân tài mà trong đó tính xác thực hầu như sẽ có vẻ hơi
dối trá.’”
Cappelli cũng kể lại chi tiết những nỗ lực mà một số công ty đã thực hiện để
đưa cho những người lao động sự kiểm soát nhiều hơn qua quá trình phát triển sự
nghiệp và vì thế mà họ dường như trở nên gắn bó với công ty hơn. Lấy ví dụ như Duke
Power cho phép những người lao động, trong những điều kiện cụ thể, gửi và đổi công
việc với những người lao động khác có cùng công việc và mức lương như của họ. Còn
hãng Coca-cola lại tổ chức những lễ hội công việc cho những nhân viên kiểm toán ít
kinh nghiệm của mình; Gap thì điều hành một văn phòng săn đầu người nội bộ nơi
những người lao động với ít nhất hai năm kinh nghiệm có thể tìm kiếm những vị trí
khác trong công ty.
Chubb “đã mở rộng thị trường lao động nội bộ của mình bằng cách loại bỏ cả
nhiệm kỳ công việc và phê chuẩn giám sát ngay với những yêu cầu đối với thay đổi
công việc trong công ty”. Học viện McKinsey còn gửi tất cả các dự án cần có sự cộng
tác (với đối tác là người lao động bậc thấp) vào một hệ thống trên toàn thế giới kèm
theo thông tin có liên quan tới ngành kinh doanh, khách hàng, đội ở nhà và kiểu công
việc dự án. Sau đó nó khuyến khích những người cộng tác tham gia theo sự ưa thích
của họ.
Trong suốt thời kỳ khủng hoảng công nghệ thông tin năm 2001 và sau đó,
Cisco đã đưa ra một ‘ngày phép tự nguyện’ với những người lao động của mình mà
theo đó công ty đồng ý trả một phần ba mức lương của họ trong thời gian họ làm việc
tại những tổ chức phi lợi nhuận. Còn Deloitte thì lại cố gắng giữ những người lao động
chính thức của Deloitte & Touche gia nhập vào công ty trong vòng năm năm sau khi
họ rời bỏ khỏi công ty (thường vì những lý do gia đình), trong trường hợp họ chưa có
một công việc mới. Chương trình Personal Pursuits của hãng bao hàm chứng nhận và
lệ phí các chương trình kỹ năng nhằm giúp họ ở lại chắc chắn, cũng như đưa ra sự truy
cập vào các chương trình sự nghiệp công ty và cuộc sống – công việc cùng những
chương trình khác. Ý tưởng trong cả hai trường hợp này đều là để giữ những người lao
động “ở trên móc” cùng với công ty đến mức họ có thể nhanh chóng hòa nhập lại với
công việc nếu đột nhiên có nhu cầu.
Cappelli cũng thừa nhận rằng tình trạng không rõ ràng về việc liệu những kỹ
năng nào sẽ được cần trong tương lai và liệu những người lao động sẽ ở lại hay không
làm cho nó trở nên khó khăn đối với những người thuê lao động nhằm thu lại được
những khoản đầu tư vào chính những người lao động đó. Một trong những cách tốt
nhất để giải quyết vấn đề này đó là phải có được những người lao động cùng chia sẻ
được các chi phí phát triển. Cappelli lưu ý rằng: “Hơn vì cố gắng gợi ý ai đó sẵn sàng
vì sự thăng cấp thì nhiều công ty vừa chuyển hướng vào việc tự bổ nhiệm, điều đó
khiến các cá nhân tình nguyện hoặc ứng cử theo những kinh nghiệm phát triển.
Thường những người thuê lao động luôn yêu cầu rằng các ứng cử viên phải giữ được
các công việc thường xuyên của mình và duy trì việc thực hiện tốt chúng. Vậy nên với
những kinh nghiệm phát triển, điều thông thường dựa trên công việc, thì đều hoàn toàn
được tự nguyện đối với công ty.”
Bán những ý tưởng cũ như những khái niệm mới
Tuy nhiên, đối với đa số bộ phận, các công ty vẫn chưa biết phải đi theo những
định hướng mới khi mà nó đòi hỏi phải kế tục các biện pháp quản lý nhân tài hiệu quả
hơn. Đây là thực sự là điều hết sức đặc biệt đối với những công ty lớn và có tiếng như
General Electric, Procter & Gamble, IBM, PepsiCo cùng với các thành viên của ngành
công nghiệp dầu lửa. Đa số được biết như là “các công ty học viện” khi mà danh tiếng
của chúng được nhắc tới như là những nơi mà những người lao động tới để học hỏi
được các kỹ năng quản lý rồi sau đó được các hãng khác thuê lại.
GE “vẫn đang làm điều mà nó đã từng làm vào những năm 1950”, Cappelli nói:
“Nó đã đưa ra một mô hình và mô hình đó không hề được thẩm tra. Một số phần của
mô hình này hoạt động rất tốt và tương đối phù hợp với cái mà tôi miêu tả – đặc biệt là
khả năng để tạo được những cái phù hợp giữa con người và cơ hội – nhưng những
thành phần khác thì lại không được hiệu quả, chẳng hạn như mục đích của việc có
được những hiểu biết thấu đáo về nhân tài. IBM không còn đảm bảo cho mọi người
vòng đời lao động nữa và họ thực hiện một số công việc bằng cách thuê bên ngoài,
nhưng họ vẫn quản lý những cơ hội thăng tiến của những nhà quản lý của mình từ các
hội sở.”
Vì vậy mà nhiều người quản trị nhân sự đã bị sa thải trong suốt những năm
1980, mà những người làm quản trị nhân sự không biết rằng việc hoạch định các mô
hình nhiều cái đang thực thi thực ra đã có cách đây hàng thập kỷ. Thế nên Cappelli đã
phát biểu rằng: “Những người quản trị nhân sự tất cả đều đang uống cùng một loại
Kool – Aid. Họ đang bán những cái thực tế đó như thể họ có được những ý tưởng mới.
Trong khi đó, kế toán nội bộ lại quá kém đến nỗi họ thậm chí không biết được nổi chi
phí cho những cố gắng quản lý nhân tài thiếu hiệu quả của mình. Các công ty không
hề nhận thấy rằng họ cần có một sự thay đổi.”
Một phương pháp mới đối với quả trị nhân tài là cần thiết vì hai lý do quan
trọng mà theo Cappelli đó là: Về mặt chính sách công khai, các công ty không được
phát triển nhân tài theo kiểu các yêu cầu ở Mỹ để tránh cạnh tranh. Còn về mặt người
chủ, hầu hết các công ty đều đang không hoạch định nhân tài, hoặc việc hoạch định
của họ bị sai, thì ngay lúc này việc khả năng có thể thuê bên ngoài làm dựa trên cơ sở
vừa đúng lúc của họ cũng đang bị bào mòn. Những người thuê lao động không thể dễ
dàng nhận thấy những người lao động ăn gian, vì vậy mà nó vẫn là một quá trình tốn
kém và mất rất nhiều thời gian để có được cái nhìn công bằng.
Cappelli cho biết, lúc đầu khi việc hoạch định các thực tế được bắt đầu đề
xướng thì các thị trường đều đủ bền vững để tạo được khả năng hoạch định lâu dài.
“Chẳng hạn như IBM đã từng có những kế hoạch hoạt động kinh doanh 15 năm được
tính toán rất chính xác. Các công ty trong ngành kinh doanh vũ khí phòng thủ đã có
những kế hoạch 10 năm. Bạn cũng đã không phải đưa ra những điều chỉnh cuối năm
về sau. Nhưng ngày nay, nhu cầu có thể thay đổi chỉ trong vòng một năm. Sự uy tín và
trách nhiệm phải giải trình đều được đẩy sang cho các cá nhân chứ không phải là các
hệ thống, và việc luôn thay đổi sự nghiệp giữa các công ty là khá cao. Thế nên những
người thuê lao động phải thích nghi được với thực tế đó.”
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_tai_theo_nhu_cau_7154.pdf