BN Trần Tấn L. sanh 1977, Nhập viện vì khối u vùng thái dương tái phát sau 4 năm phẫu thuật. Hồi năm
2008, khối u ở vùng thái dương 150 x150 mm nghi là u máu nên BV Ung bướu chuyển BV Bình Dân, đã mổ cắt
trọn khối u, mô bướu là u lành tính. 1 năm sau u tái phát tại chỗ và lớn nhanh, vì đau ít nên không đến lại bệnh
viện. 3 năm sau vì u quá lớn nên trở lại bệnh viện. Khối u đã gây biến dạng mặt và đầu. U gồ ghề, mặt ngoài có
nhiều tĩnh mạch nổi to. CT thấy u rất lớn chưa di căn não, chỉ đến vỏ não 135x87x174 mm. Hội chẩn bác sĩ thần
kinh, và bác sĩ mạch máu, MSCT cho thấy bướu chỉ có các nhánh động mạch cảnh ngoài đến nuôi. Mổ ngày
16/1/2013, cắt bỏ trọn khối u, máu chảy rất nhiều. Sau mổ phải tạo hình vết mổ. 12 ngày sau mổ và tạo hình, vết
mổ lành tốt, mặc dù có gây biến dạng một ít ở đầu - mặt. Mô bướu trên vi thể là sarcom sợi. 3-4 tuần sau mổ, BN
được hoá trị.
5 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 677 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Nhân một trường hợp sarcom sợi vùng thái dương tái phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 436
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP SARCOM SỢI VÙNG THÁI DƯƠNG TÁI PHÁT
Văn Tần*, Nguyễn Ngọc Bình*, Hoàng Danh Tấn*
TÓM TẮT
BN Trần Tấn L. sanh 1977, Nhập viện vì khối u vùng thái dương tái phát sau 4 năm phẫu thuật. Hồi năm
2008, khối u ở vùng thái dương 150 x150 mm nghi là u máu nên BV Ung bướu chuyển BV Bình Dân, đã mổ cắt
trọn khối u, mô bướu là u lành tính. 1 năm sau u tái phát tại chỗ và lớn nhanh, vì đau ít nên không đến lại bệnh
viện. 3 năm sau vì u quá lớn nên trở lại bệnh viện. Khối u đã gây biến dạng mặt và đầu. U gồ ghề, mặt ngoài có
nhiều tĩnh mạch nổi to. CT thấy u rất lớn chưa di căn não, chỉ đến vỏ não 135x87x174 mm. Hội chẩn bác sĩ thần
kinh, và bác sĩ mạch máu, MSCT cho thấy bướu chỉ có các nhánh động mạch cảnh ngoài đến nuôi. Mổ ngày
16/1/2013, cắt bỏ trọn khối u, máu chảy rất nhiều. Sau mổ phải tạo hình vết mổ. 12 ngày sau mổ và tạo hình, vết
mổ lành tốt, mặc dù có gây biến dạng một ít ở đầu - mặt. Mô bướu trên vi thể là sarcom sợi. 3-4 tuần sau mổ, BN
được hoá trị.
Từ khoá: Sarcom sợi vùng thái dương
ABSTRACT
A CASE OF RECURRENT FIBROSARCOMA AT TEMPORAL AREA
Van Tan, Nguyen Ngoc Binh, Hoang Danh Tan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 1 - 2014: 436 - 440
Tran Tan Loc, 1977, readmission for a recurrent tumor of the temporal area. On 2008, there is a tumor of the
temporal area 150 x150 mm, We operated and removed the tumor. Tissue diagnosis: Fibroma histocytomas. 1 year
later, the tumor recurred and growed fast. 4 years after, the tumor became big, so the patient came to hospital. The
tumor deformed the face and the head. A multilobe with a lot of venous silloned on the surface of tumor. On the
CT scan, the tumor was big 135x87x174 mm.but no metastase to the nervous system Consultation of the
neurologic surgeon, and of the vascular surgeon, a MSCT showed the tumor was nourished by many branches of
the left external carotid. Operation on 16/1/2013, the tumor was removed all, a lot of bleeding. After operation,
subcutaneous and skin must be replaced by a skin and subcutaneous tissue of the neck. 12 days later, the skin was
healed, the face and the head were still deformed a little. The tissue diagnosis: Fibrosarcomas 3-4 after operation, a
program of chemotherapy will be proposed.
Keywords: Fibrosarcoma of the temporal area
TỔNG QUAN
Sarcôm thường rất hiếm, khoảng 1% u ác
trong đó có khoảng 15-20% ở đầu và cổ. 80% ở
người lớn, thường u ác sợi – mô bào(2). Di căn
thường đến phổi, gan và xương nhưng tái phát
tại chỗ thường xảy ra. CT scan và MRI vùng đầu
và ngực cho biết u đã tái phát tại chỗ, đã di căn
hay chưa(11).
Điều trị gồm cắt bỏ khối u rộng và tạo hình
đầu-cổ-mặt(9).
Bệnh sử
Trần Tấn Lộc, sanh năm 1977, công nhân xây
dựng, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh.
Nhập viện vì khối u vùng thái dương trái,
kích thước rất lớn, tái phát.
4 năm sau mổ khối u vùng thái dương, cắt bỏ
trọn u. 1 năm sau, khối u tái phát và lớn dần. BV
Ung Bướu, TP HCM chuyển BV Bình Dân, nghi
* Khoa Lồng ngực – Tim mạch (Tổng quát 3) - Bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: GS.BS. Văn Tần ĐT: 0838394747 Email: binhdanhospital@hcm.vnn.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 437
là u máu. 4 năm trước, BV Ung Bướu cũng
chuyển BV Bình Dân, đã mổ cắt bỏ trọn khối u,
tạo hình, ngày 23/06/2008. Xuất viện 03/07/2008.
Đại thể: u vùng thái dương 150 x 150 mm, có vỏ
bao, trong có nhiều mô hoại tử, nghi là sarcôm
nhung vi thể: u mô bào sợi lành
(fibrohistocytomas) (GS Nguyễn Sào Trung).
Hình 1: U vùng thái dương 4 năm trước
Hình 2: 4 năm sau: U xâm lấn xương sọ, U ở trên tai, mắt và má trái
Mặc dù khối u tái phát, lớn nhanh, nhưng
bệnh nhân cảm thấy đau ít và vẫn đi làm bình
thường.
Bệnh nhân nhập viện ngày 04/01/2013 vì
khối u vùng thái dương tái phát đã 3 năm,
(không đến tái khám), u rất lớn làm biến dạng
vùng mặt bên trái.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 438
Máu nuôi u rất nhiều, đặc biệt là ĐM thái
dương
N/V BV Ung bướu, chuyển BV Bình Dân
ngày 04/01/2013.
Khối u vùng thái dương rất lớn, gồ ghề. Bên
ngoài có nhiều tĩnh mạch ngoằn ngoèo, U cứng
đều, gây xệ hốc mắt và méo mặt do xương mặt
phía mắt trái nâng cao.
MSCT khoảng cách lớp 3 mm: U vùng thái
dương rất lớn. 135 x 87 x 174 mm, có phản quang
hơi cao, không đồng nhất, bờ không đều. Tổn
thương bắt cản quang nhanh, mạnh và không
đều khi bơm thuốc, vài vị trí có hồi lưu tĩnh
mạch sớm. Khối tổn thương được nuôi bởi ĐM
cảnh ngoài, nhánh ĐM thái dương nông. Không
thấy tổn thương trên não-màng não.
Kết luận: Bướu máu hỗn hợp vùng thái
dương-mặt trái (BS Đặng Đình Hoan,
03/01/2013).
Các XN. BC 13.82 K/ul, nhóm máu A, các XN
khác BT.
Hội chẩn BV Chợ Rẫy 14/01/2013: U mạch
máu vùng sàn sọ, đỉnh trái lớn, tái phát. Đề nghị:
chụp khảo sát mạch máu (cảnh trong, cảnh
ngoài) và can thiệp mạch máu.
Tiền căn
Tai nạn xe 1997, bị chấn thương khắp người,
nằm BV Nhân Dân Gia Định, năm 2006, nổi u ở
trên mang tai, lớn dần, đến năm 2008 thì mổ.
Hiện độc thân.
Phẫu thuật
Ngày 16/01/2013: Lý do: U rất lớn tái phát
vùng thái dương sau mổ 4 năm
Thế năm ngửa: kê vai, ưỡn cổ, nghiêng bên
phải.
- Mổ tìm ĐM cảnh ngoài trái, kẹp tạm.
- Rạch da đường quanh khối u, khối u gồm
nhiều máu nuôi, xương, mô mủn có chỗ hoại tử,
ăn vào xương mặt làm gãy xương gò má, xương
mặt bị đẩy ra trước. Chảy máu rất nhiều. Bóc
tách khối u từ dưới da đầu đến xương mặt,
xương sọ, lấy trọn khối u và da. Ép gạc, cầm
máu. Khâu các chỗ chảy máu bằng vicryl 00. Mở
kẹp ĐM cảnh ngoài, thấy chảy máu ít.
- Xẻ da vùng mặt-cổ để tạo hình. Xoay vạt da
đã cắt xén vào giữa. Khâu tâm gân dưới da và
da. Dẫn lưu vùng lấy bướu. Băng ép cho bớt
chảy máu.
- Khâu lại chỗ mổ tìm ĐM cảnh ngoài và
khâu chỗ xẻ da làm phẫu thuật tạo hình.
Máu mất khoảng: 2.500 ml.
Thời gian mồ: 120 phút.
Trong lúc mổ, có lần HA xuống 70/50.
Khối u Phẫu tích, kẹp tạm ĐM cảnh ngoài Xẻ da, phẫu tích khối u Bệnh phẩm (u lấy ra)
Hậu phẫu
HA cao liên tục mặc dù cho ngủ, phải cho hạ
HA. Nằm hồi sức 2 ngày, chuyển về khoa TQ3. 3
ngày, mở băng, mặt còn sưng nhưng mắt vẫn
thấy rõ. Các chỉ khâu có căng nhưng da tốt. Bệnh
nhân được chăm sóc cẩn thận hàng ngày. Đến
ngày 12, cắt hết chỉ, vết thường lành tốt.
Mô bướu: Đại thể: u vùng thái dương rất lớn,
gồm nhiều loại mô.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 439
Vi thể: Bướu cấu tạo nhiều tế bào sợi, nhân
tăng sắc, ít di dạng, xếp thành bó theo nhiều
hướng khác nhau, có khi hoá niêm tại một số
vùng.
Kết luận; Sarcom sợi biệt hoá rõ (GS Nguyễn
Sào Trung, 25/01/2013)
CT scan não: Không thấy tổn thương MSCT lồng ngực: không thấy tổn thương
BÀN LUẬN
Sarcom mô mềm có thể gặp ở khắp nơi(2,11),
đặc biệt ở đùi nhưng ở vùng thái dương thì rất ít.
Điều bất thường là lần đầu, năm 2008, khi mổ,
trên đại thể nghi là sarcom nhưng trên vi thể là u
lành, fibromus histocytomas. Sau mổ, 1 năm tái
phát, làm cho ta nghĩ là u ác. Thật vậy, 1 năm
sau, u tái phát và lớn dần, đến nổi bệnh nhân
thấy đi, đứng, ngồi, nằm đều mất thăng bằng,
mặc dù không ảnh hưởng nhiều đến chức năng
các tạng chung quanh. Theo vi thể là mô sợi,
theo bướu thì rất lớn, lại nằm sâu, ăn vào xương
làm gãy xương mặt. 2 chỉ số quan trong nhất để
nói là nặng là chỉ số phân chia tế bào và chỉ số
hoại tử khối u, chảy máu đều có trong khối u, là
nhóm biệt hoá kém(6,1,4).
Lần này phẫu thuật rất khó và mất máu rất
nhiều, có lần suýt đứng tim trên bàn mổ, mới lấy
được hết khối u. Khối u hoại tử nhiều chỗ, giống
như lần trước và cũng nghĩ là u ác và định bệnh
là u ác sợi. Như vậy, là định bệnh vi thể lần đầu
có thể không đúng.
U sợi ác khá hiếm, khoảng 10-19% là u mô
mềm. Hơn ½ ở các đầu chi dưới, chỉ có khoảng
10% là ở đầu hoặc cổ, có thể lẫn lộn với mô sợi ác
tính histocytoma, spindle cell carcinoma, u ác
schwanoma và synovial carcinoma. Trong báo
cáo này, vi thể lẫn lộn với u sợi histocytoma. U
sợi ác có thể phát triển trên chỗ chiếu tia sau 10
năm hay sẹo phỏng sau 30 năm. Bất cứ tuổi nào
cũng có thể bị u sợi ác, đặc biệt ở nam giới.
Trong phúc trình này thì u sợi ác gặp ở nam
giới và có thể trên sẹo chấn thương. Về lâm sàng,
u ban đầu không đau, u lớn dần và tuỳ theo vị trí
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 1 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2014 440
mới cảm khó chịu. Trên CT scan, u ác sợi thường
có hình ảnh đều, có thể làm biến dạng xương.
Trên đai thể, u có màu xám. Điều này đúng với
trường hợp chúng tôi. Trên vi thể u có thể biệt
hoá tốt hay xấu. Trong trường hợp sau, có mô
hoại tử, chảy máu và phân chia tế bào nhanh.
Điều này cũng rất đúng trong trường hợp của
chúng tôi.
Điều trị gồm cắt bỏ trọn khối u và chiếu tia
dành cho trường hợp cắt không trọn hay ăn lan
xương. Khối u > 5 cm, cắt không hết, có xâm lấn
xương, da và thần kinh-mạch máu thường có
tiên lượng xấu. Đúng như trường hợp của chúng
tôi, như vậy, ngoài hoá trị còn chiếu tia. Tái phát
từ 50-75% trong đó có 20-40% di căn xa mà phần
lớn là phổi. Ở đây, chưa thấy di căn phổi, đặc
biệt trên CT scan. Tái phát thường xảy ra trong 2
năm đầu. Sống qua 5 năm từ 50-70% (Error! Reference
source not found.)
U GIST thường gặp ở ống tiêu hoá, tái phát
di căn tại vùng, điều trị hỗ trợ với imatinib rất
hiệu quả(3).
Đối với u ác mỡ sau phúc mạc thì từ 50-80%
tái phát, tuỳ theo loại biệt hoá(10).
Về hoá trị hỗ trợ thì thường dùng Mesna,
ifosfamide, doxorubicin và dacarbasine
(MAID), 47% đáp ứng trong đó có 10% đáp
ứng hoàn toàn(12).
Di căn tại vùng cũng rất nhiều, giữa năm
1982 đến năm 2002, có 179 (13%) trong số 1421
bệnh nhân cắt các chi(9,8,7), có di căn tại vùng cắt.
KẾT LUẬN
Sarcôm sợi ở thái dương rất hiếm, gặp nhiều
ở nam giới, có thể phát triển trên sẹo do chấn
thương, thường lẫn lộn với u sợi histocytoma.
Khối u phát triển chậm, vì ăn lan xương nên
phải chiếu tia trong lúc mổ, thường di căn phổi.
Cắt bỏ trọn khối u khó.
Sau mổ phải hoá trị và xạ trị.
Tỉ lệ tái phát cao trong 2 năm đầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alvegard TA, Berg NO (1989):: Histopathology peer review of
high grade soft tissue sarcomas, The Scandinavian Sarcoma
group experience. J Clin Oncol 7: 1845-1851.
2. Brennan MF, Lewis JJ (2002):: Diagnosis and management of
soft tissue sarcomas. London, Martin Dunitz.
3. Canter RJ, Qin LX, Downey RJ et al (2007): Perioperatve
chemotherapy in patients undergoing pulmonary resection for
metastatic soft tissue sarcoma of the extremity. A retrospective
analysis. Cancer 110:2050-2060.
4. Fletcher C, Unni K, Mertens F et al (2002):: Pathology and
genetics of tumors of soft tissue and bone. World Health
Organisation Classification of tumors. Lyon France 2002,
International for Research on cancer Press, p 427.
5. Grobmeyer SB, Maki RG, Demetri GD et al (2004):: Neo-
adjuvant chemotherapy for primary high grade extremity soft
tissue sarcoma, Ann Oncol 15:1667-1672
6. Guillon L, Coindre J, Bonichon E et al (1997): Comparative
study of the national cancer institute and French Federation of
cancer centers sarcoma group grading system in a population
of 410 adult patients with tissue sarcoma. J Clin Oncol 15:350-
362.
7. Kattan M, Leung D, Brennan M (2002): Postoperative
nomogram for 12-year sarcoma specific death. J Clin Oncology
20: 791- 798.
8. Maki RG, Awan RA, Dixon RH et al (2002):: Differential
sensitivity to imatinib of 2 patients with metastatic sarcomas
arising from dermatofibrosarcoma protuberans. Int J Cancer
100:623-626,2002.
9. Pisters PW, Harrison LB, Leung DH et al (1996): Long term
results of a propective randomized trial of adjuvant
brachytherapy in a soft tissue sarcomas. J Clin Oncol 14: 859-
868.
10. Singer S, antonescu CR, Riedel E et al (2003):: Histologic
subtype and margin of resection predict pattern of recurrence
and survival for retroperitoneal liposarcoma, Ann Surg 238:
358-370.
11. Singer S, Demetri GD, Baldini EH et al (2000):: Management of
soft tissue sarcomas. An overview and update. Lancet Oncol
1:75-85.
12. Singer S (2010): Soft tissue sarcomas: Sabiston Textbook of
Surgery, 19 Edit, 2010, p 768-782.
Ngày nhận bài báo: 31/10/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/12/2013
Ngày bài báo được đăng: 20/02/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 436_440_1101.pdf