Khuynh hướng của NĐT Việt Nam sau khi mua CP chỉ nghĩ
đến việc tăng bao nhiêu % mà chưa nghĩ đến việc chấp nhận
những rủi ro mà cổ phiếu đó có thể mang lại.
Có thể nói, 2010 là một năm không mấy thành công của TTCK
khi cả VN-Index và HNX -Index dao động “lình xình”.
Đáng chú ý, có thời điểm hai chỉ số này đã cán mức thấp nhất
của năm (dưới 100 điểm đối với HNX-Index và dưới 423 điểm đối
với VN-Index). Tuy vậy, 2010 vẫn là năm nhiều doanh nghiệp tiến
hành niêm yết cổ phiếu đáng kể nhất nhằm huy động vốn.
Tiếp tục trao đổi về vấn đề này, StockNews đã có cuộc trò
chuyện với ông Huỳnh Anh Tuấn - Tổng giám đốc CTCK SJC.
Ông Huỳnh Anh Tuấn cho biết: Tính đến 31/12/2009, tổng số cổ
phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn Tp.HCM và Hà Nội là
khoảng 457.
Ở thời điểm hiện tại, con số này đã là 623 cổ phiếu và 5 chứng
chỉ quỹ, tức thị trường đã tiếp nhận thêm 166 cổ phiếu mới kể từ
đầu năm đến nay (trong đó: sàn Hà Nội có 91 mã và 75 mã trên
sàn Tp.HCM).
8 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu "Nhà đầu tư phải biết chấp nhận và quản trị rủi ro", để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
"Nhà đầu tư phải biết chấp nhận
và quản trị rủi ro"
Khuynh hướng của NĐT Việt Nam sau khi mua CP chỉ nghĩ
đến việc tăng bao nhiêu % mà chưa nghĩ đến việc chấp nhận
những rủi ro mà cổ phiếu đó có thể mang lại.
Có thể nói, 2010 là một năm không mấy thành công của TTCK
khi cả VN-Index và HNX-Index dao động “lình xình”.
Đáng chú ý, có thời điểm hai chỉ số này đã cán mức thấp nhất
của năm (dưới 100 điểm đối với HNX-Index và dưới 423 điểm đối
với VN-Index). Tuy vậy, 2010 vẫn là năm nhiều doanh nghiệp tiến
hành niêm yết cổ phiếu đáng kể nhất nhằm huy động vốn.
Tiếp tục trao đổi về vấn đề này, StockNews đã có cuộc trò
chuyện với ông Huỳnh Anh Tuấn - Tổng giám đốc CTCK SJC.
Ông Huỳnh Anh Tuấn cho biết: Tính đến 31/12/2009, tổng số cổ
phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên sàn Tp.HCM và Hà Nội là
khoảng 457.
Ở thời điểm hiện tại, con số này đã là 623 cổ phiếu và 5 chứng
chỉ quỹ, tức thị trường đã tiếp nhận thêm 166 cổ phiếu mới kể từ
đầu năm đến nay (trong đó: sàn Hà Nội có 91 mã và 75 mã trên
sàn Tp.HCM).
Mặc dù số lượng cổ phiếu tăng nhanh và nhiều như vậy, nhưng
mức vốn hóa thị trường lại tăng không đáng kể, ước khoảng 6%.
Lý giải cho điều này, ông Tuấn cho rằng, do lượng lớn cổ phiếu
trong thời gian qua đã giảm mạnh khiến mức vốn hóa của thị
trường cũng giảm theo.
Ông có nhận định gì về diễn biến của các cổ phiếu sau khi lên
sàn?
Theo quan điểm của tôi, 2010 là năm đầy khó khăn của TTCK mà
đặc biệt là ảnh hưởng khá lớn từ chính sách tiền tệ. Chính vì lẽ
đó, ngành tài chính ngân hàng là nhóm cổ phiếu bị tác động
nhiều nhất.
Ngoài ra, các cổ phiếu ngành bất động sản cũng là một trong
những đối tượng chịu ảnh hưởng.
Còn đối với các cổ phiếu ngành dầu khí, mặc dù có nhiều tiềm
năng phát triển nhưng lại là ngành có nhiều lĩnh vực hoạt động
mới nên cũng chưa tạo được mức độ ảnh hưởng lớn đối với các
nhà đầu tư.
Trong bối cảnh hiện nay, chứng khoán có còn là kênh đầu tư tốt
cho giới đầu tư cũng như là kênh huy động vốn cho doanh
nghiệp?
Năm nay, TTCK thế giới nói chung đều có tốc độ tăng trưởng ấn
tượng, với trung bình đạt từ 20% đến 30%. Nhưng, TTCK Việt
Nam lại đi ngược với xu hướng chung này khi sụt giảm tới 20%.
Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này bởi một số chính sách
về tiền tệ, tỷ giá, thâm hụt cán cân thương mại hay những lo ngại
về lạm phát. Nhưng theo tôi, lý do quan trọng nhất là do 2010 là
năm có nhiều cổ phiếu niêm yết và mức độ huy động vốn thông
qua TTCK tăng trưởng đột biến.
Chính vì tăng nhanh như vậy, nên hầu như tất cả nguồn vốn của
nhà đầu tư (NĐT), thay vì luân chuyển trên TTCK lại rơi vào túi
của doanh nghiệp dành cho sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, do tính chất pha loãng cổ phiếu, nên dòng tiền trên thị
trường cũng bị hao hụt đáng kể chỉ trong thời gian ngắn.
Còn việc liệu đây có phải là cơ hội tốt cho NĐT hay không? Tôi
cho rằng, do ảnh hưởng của một số chính sách nên giá của các
cổ phiếu hiện đã về vùng hấp dẫn, phù hợp đối với các hoạt động
đầu tư, đặc biệt là các khoản đầu tư dài hạn.
Đó là ưu điểm của TTCK Việt Nam hiện nay, nhưng cũng còn
không ít khó khăn vì mức độ ổn định tỷ giá và lãi suất hiện đang
là một bài toán khó giải và cũng rất khó để có thể giảm hơn nữa
như kỳ vọng của giới đầu tư.
Nói chung, thị trường nào cũng có thuận lợi và khó khăn nhất
định. Và nếu chúng ta nhìn ở cục diện trung hạn hoặc dài hạn, tôi
cho rằng đó sẽ là cơ hội tốt cho nhiều nhà đầu tư biết nắm bắt cơ
hội.
Nhưng làm thế nào NĐT có thể lựa chọn được cổ phiếu tốt trong
bối cảnh thị trường có quá nhiều cổ phiếu phát hành mới, phát
hành thêm như hiện nay?
Đầu tư vào một cổ phiếu nào đó được hiểu đơn giản là mua cổ
phiếu, chờ cho cổ phiếu đó tăng trưởng và hưởng lợi chênh lệch.
Nhưng theo tôi, khuynh hướng của nhà đầu tư Việt Nam thường
thấy là, sau khi mua cổ phiếu, họ chỉ nghĩ đến việc tháng sau
tăng bao nhiêu % mà chưa nghĩ đến việc chấp nhận những rủi ro
mà cổ phiếu đó có thể mang lại.
Rủi ro ở đây được hiểu là sự mất giá của cổ phiếu cùng với sự
sụt giảm chung của thị trường, do doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
hoặc bị ảnh hưởng bởi chính sách nào đó, hoặc cũng có thể do
một bộ phận nhà đầu tư có những hoạt động làm lũng đoạn thị
trường.
Do đó, theo tôi, vấn đề quan trọng là chúng ta cần phải biết chấp
nhận rủi ro và quản lý rủi ro như thế nào để có thể mang lại kỳ
vọng lớn.
Việc NĐT nên chọn cổ phiếu nào để đầu tư khi có quá nhiều cổ
phiếu phát hành mới, phát hành thêm, thì theo tôi, nếu nhà đầu tư
không tiếp cận được với doanh nghiệp, có thể tập trung vào các
chỉ số cơ bản như: P/E, P/B của doanh nghiệp hoặc tính thanh
khoản của các cổ phiếu để đưa ra quyết định giải ngân hợp lý.
Hiện, có thể thấy, với mức lãi suất cao, một số ngành sử dụng
nhiều vốn vay sẽ chịu tác động nhiều nhất, hay những ngành chịu
ảnh hưởng của chính sách tỷ giá cũng sẽ là những ngành gặp
khó khăn.
Nhưng nói vậy cũng không có nghĩa là tất cả đều khó khăn hết.
Vì các ngành như: hàng tiêu dùng, cao su tự nhiên, dầu khí… là
những ngành vẫn thu lợi nhuận trong bối cảnh khó khăn của nền
kinh tế và nhà đầu tư vẫn có thể chọn lọc “mã ưng ý” để đầu tư.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nha_dau_tu_phai_biet_chap_nhan_va_quan_tri_rui_ro.pdf