Bình đẳng và pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật hay sự bảo vệ bình đẳng của luật như vẫn được
phát biểu, là một yếu tố cơ bản đối với bất kỳ một xã hội công bằng và dân chủ
nào. Bất kể giàu hay nghèo, dân tộc chiếm đa số hay thiểu số tôn giáo, liên minh
chính trị của nhà nước hay phe đối lập, tất cả đều được hưởng sự bảo hộ bình đẳng
của pháp luật.
Nhà nước dân chủ không thể đảm bảo là cuộc sống sẽ đối xử bình đẳng với tất cả
mọi người, và do đó nó cũng không có trách nhiệm đểthực hiện điều đó. Tuy
nhiên, John P. Frank -chuyên gia về luật hiến pháp đã viết: “Nhà nước không
được áp đặt thêm các điều bất công cho xã hội trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhà
nước cần phải đối xử công bằng và bình đẳng với tất cả mọi người dân của mình”
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Nguyên tắc pháp quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyên tắc pháp quyền
Bình đẳng và pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật hay sự bảo vệ bình đẳng của luật như vẫn được
phát biểu, là một yếu tố cơ bản đối với bất kỳ một xã hội công bằng và dân chủ
nào. Bất kể giàu hay nghèo, dân tộc chiếm đa số hay thiểu số tôn giáo, liên minh
chính trị của nhà nước hay phe đối lập, tất cả đều được hưởng sự bảo hộ bình đẳng
của pháp luật.
Nhà nước dân chủ không thể đảm bảo là cuộc sống sẽ đối xử bình đẳng với tất cả
mọi người, và do đó nó cũng không có trách nhiệm để thực hiện điều đó. Tuy
nhiên, John P. Frank - chuyên gia về luật hiến pháp đã viết: “Nhà nước không
được áp đặt thêm các điều bất công cho xã hội trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhà
nước cần phải đối xử công bằng và bình đẳng với tất cả mọi người dân của mình”.
Không ai có quyền cao hơn luật, hơn nữa, luật chính là sáng tạo của con người chứ
không phải là sự áp đặt lên con người. Công dân của thể chế dân chủ cầu viện tới
luật vì họ hiểu rằng, bằng cách gián tiếp, họ đang cầu viện tới chính họ với tư cách
là những người đã tạo ra luật. Khi luật được xây dựng bởi chính người dân, những
người phải phục tùng luật, thì khi đó cả luật và dân chủ sẽ cùng được thực thi.
Đúng trình tự tố tụng
Frank chỉ ra rằng tại bất kỳ xã hội nào trong lịch sử thì những người nắm quyền
quản lý hệ thống tư pháp hình sự đều có khả năng dẫn tới sự lạm dụng và dễ có
hành động bất công. Nhân danh nhà nước, các cá nhân có thể bị bỏ tù, tài sản bị
tịch thu, bị hành hạ, bị đi đầy và bị hành quyết mà không có sự chứng minh hợp
pháp, và thường cũng không có một kết tội công khai nào. Không có một xã hội
dân chủ nào chấp nhận những lạm dụng như thế.
Mọi nhà nước bắt buộc phải có quyền lực để duy trì trật tự và xử phạt tội phạm,
nhưng các nguyên tắc và thủ tục để nhà nước thực thi pháp luật bắt buộc phải
được công khai, rõ ràng, không che dấu, không tùy tiện, không được sử dụng vào
mục đích chính trị của nhà nước.
Các yêu cầu cơ bản để có quyền bình đẳng trước pháp luật trong một nền
dân chủ là gì?
* Cảnh sát không có quyền đột nhập và lục soát bất kỳ ngôi nhà của người dân nào
nếu không có lệnh của tòa án với lý do rõ ràng. Thể chế dân chủ không cho phép
cảnh sát mật gõ cửa nhà dân vào lúc nửa đêm.
* Không ai bị bắt, giam giữ nếu không có văn bản rõ ràng chỉ ra sự vi phạm.
Những người đó không những phải được biết lý do chính xác của sự kết tội chống
lại họ mà còn phải được trả tự do ngay lập tức theo nguyên tắc lệnh đình quyền
nếu tòa thấy sự kết tội đó không có chứng cứ và sự bắt giữ là vô lý.
* Không được kéo dài thời gian giam giữ đối với người bị cho là có tội, họ cần
phải được đưa ra xét xử trước công luận một cách không chậm trễ, được đối diện
và chất vấn trước những người kết tội họ.
* Nhà chức trách phải chấp nhận thả tự do khi người bị coi là có tội đã đóng tiền
bảo lãnh hoặc trả tự do theo một số điều kiện nào đó trong khi chờ phiên tòa xét
xử, nếu như ít có nguy cơ người đó trốn chạy hay gây thêm tội ác. Các hình phạt
độc ác hay bất thường so với truyền thống hay quy luật của xã hội phải được ngăn
cấm.
* Không ai có thể bị cưỡng ép tự làm chứng chống lại họ. Cần phải nghiêm cấm
tuyệt đối mọi hành động tự kết tội một cách cưỡng bức. Như một hệ quả tất yếu,
cảnh sát không được sử dụng sự hành hạ hoặc sự lạm dụng về thân thể hay tinh
thần đối với người bị tình nghi trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Hệ thống luật pháp
trong đó ngăn cấm sự thú tội cưỡng bức sẽ làm giảm ngay lập tức động cơ của
cảnh sát sử dụng sự hành hạ, đe dọa hoặc bất kỳ một hình thức lạm dụng nào để có
được thông tin, ngay cả tòa án cũng không cho phép đưa các thông tin kiểu đó
ra trước tòa xét xử để chứng minh.
* Mọi người đều không thể bị kết tội kép: không thể bị kết tội hai lần cho cùng
một tội. Bất kỳ người nào đã được tòa xử vô tội đều có thể không bao giờ bị kết
tội lại với cùng hành vi đó.
* Để tránh khả năng lạm dụng quyền của các nhà chức trách nên mọi quy định về
luật hồi tố đều bị bãi bỏ. Luật hồi tố là các luật được xây dựng sau khi đã xảy
ra sự kiện để người nào đó có thể bị kết án cho dù điều luật đó không có hiệu
lực vào thời điểm xảy ra sự kiện).
* Bị đơn có thể có thêm sự bảo hộ để chống lại các cưỡng bức của nhà nước. Ví
dụ tại Hoa Kỳ, người bị kết tội có quyền có luật sư làm đại diện cho họ trong
suốt quá trình tiến hành tố tụng kể cả khi chính bản thân họ không đủ tiền để
chi phí cho sự đại diện hợp pháp đó. Cảnh sát phải thông báo cho người bị tình
nghi về các quyền của họ vào lúc bị bắt, kể cả quyền có luật sư, quyền giữ im
lặng (để tránh cưỡng bức nhận tội).
Một thủ đoạn bất công thường thấy là kết tội các bên đối lập vào tội phản bội tổ
quốc. Do đó, tội phản quốc bắt buộc phải được giới hạn một cách thận trọng về
định nghĩa để nó không bị lợi dụng trở thành vũ khí dập tắt mọi phê phán, góp ý
đối với chính phủ.
Các giới hạn đó không có nghĩa là nhà nước thiếu quyền lực cần thiết để thực thi
luật pháp và trừng phạt tội phạm. Mà ngược lại, hệ thống tư pháp hình sự trong
một xã hội dân chủ sẽ đạt được hiệu quả khi sự quản lý của nó được chính người
dân đánh giá là công bằng và có tác dụng bảo vệ quyền của mỗi cá nhân cũng như
lợi ích chung của xã hội.
Các thẩm phán có thể được chỉ định hay được bầu cho một nhiệm kỳ giới hạn
hoặc vô hạn. Dù thẩm phán được chọn theo cách nào đi chăng nữa thì điều cốt yếu
là họ phải độc lập, không bị phụ thuộc vào thế lực chính trị cầm quyền để đảm bảo
tính vô tư trong công việc. Các thẩm phán không thể bị cách chức chỉ vì các lý do
không quan trọng hay chỉ thuần túy vì chính trị, họ chỉ bị cách chức khi phạm các
tội nghiêm trọng hoặc có hành động nguy hiểm và việc kết tội phải được tiến hành
theo đúng các thủ tục tố tụng, chẳng hạn như thông qua quá trình luận tội và đưa
ra tòa xét xử.
Hiến pháp
Nền tảng chính xây dựng nên một chính phủ dân chủ là hiến pháp - đó là sự tuyên
bố chính thức các quy định, các giới hạn, các thủ tục và các định chế. Hiến pháp
của một quốc gia là bộ luật tối cao của đất nước đó, và tất cả mọi công dân, từ thủ
tướng tới nông dân đều chịu sự chi phối của nó. Ở mức độ tối thiểu, hiến pháp
(thường được hệ thống hóa thành một văn bản duy nhất) xây dựng quyền lực cho
chính phủ quốc gia, mang lại sự đảm bảo cho các quyền cơ bản của con người và
đưa ra các thủ tục hoạt động cơ bản cho chính phủ.
Mặc dù phải có tính ổn định và phổ quát, hiến pháp cũng buộc phải có khả năng
được thay đổi và bổ sung khi nó trở nên lạc hậu. Hiến pháp bằng văn bản lâu đời
nhất là Hiến pháp Hoa Kỳ, bao gồm bảy điều chính và 27 điều sửa đổi bổ sung.
Tuy nhiên, văn bản này chỉ là nền tảng cho vô số các quyết định pháp lý, các đạo
luật, các quyết định của tổng thống và các quy định theo thông lệ đã được xây
dựng qua suốt 200 năm tồn tại và làm cho Hiến pháp Hoa Kỳ luôn sống động và
hợp lý.
Mô hình phát triển của hiến pháp diễn ra ở mọi thể chế dân chủ. Nói chung, có hai
trường phái tư tưởng về quá trình bổ sung hoặc thay đổi hiến pháp. Một trường
phái chấp nhận quá trình thay đổi khó khăn, đòi hỏi nhiều bước và phải có sự chấp
thuận của đa số lớn. Như thế, hiến pháp ít bị thay đổi và chỉ thay đổi khi có các lý
do bắt buộc cùng với sự ủng hộ của công chúng. Đây chính là mô hình của Hiến
pháp Hoa Kỳ, là sự công bố ngắn gọn các nguyên tắc tổng quát, các quyền lực và
các giới hạn đối với chính phủ, đồng thời liệt kê rõ ràng và chi tiết hơn về các
trách nhiệm, các thủ tục của chính phủ, cũng như chỉ rõ các quyền cơ bản của
công dân trong Đạo luật về quyền con người.
Một cách khác đơn giản hơn để bổ sung, thay đổi hiến pháp mà nhiều quốc gia
hiện đang sử dụng là các bổ sung có thể được chấp nhận bởi cơ quan lập pháp và
được các cử tri thông qua trong lần bầu cử tiếp theo. Các hiến pháp thay đổi theo
cách này có thể khá dài, với những điều khoản cụ thể mà chúng chỉ khác chút ít so
với phần tổng quát của pháp luật.
Chưa có một hiến pháp nào như Hiến pháp Hoa Kỳ, được viết trong thế kỷ 18, lại
có thể tồn tại không thay đổi cho tới tận cuối thế kỷ 20. Tương tự, không có một
hiến pháp nào đang có hiệu lực ngày hôm nay có thể tồn tại cho tới thế kỷ tới mà
không có khả năng thay đổi - mặc dù vẫn phải bám sát theo các nguyên tắc về
quyền cá nhân, thực thi đúng quy trình tố tụng và cai trị dựa trên sự nhất trí của
người dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 117_9169.pdf
- 116_6948.pdf