Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến tới dân giàu, nước mạnh, x hội cơng bằng, dn chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực (nguồn lực con người) được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng đước yêu cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Marx - Lenin về con người tại Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Đảng ta đ đề ra v thơng qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách l: động lực của sự nghiệp xy dựng x hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa x hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong ph về tinh thần, trong sáng về đạo đức.”
Phát triển con người Việt Nam toàn diện - đó cũng chính là động lực, là mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang từng bước tiến hành. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trị quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống x hội v trong sự pht triển nền kinh tế x hội chủ nghĩa, thì chất lượng người lao động là nhân tố quyết định. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đ khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Thực tiễn đ chứng tỏ rằng không có người lao động chất lượng cao, chúng ta không thể phát triển kinh tế, không thể đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nhưng cũng chính vì ngho nn, lạc hậu về kinh tế m chất lượng của người lao động nước ta chưa cao. Để thoát khỏi cái vịng luẩn quẩn ny v tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì một nước cịn đang ở tình trạng km pht triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, có tầm nhìn xa trơng rộng, pht triển con người, nâng cao chất lượng nguồn nhn lực. Vấn đề cốt li l ta phải thực hiện chiến lược Giáo dục - Đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cũng như xu hướng pht triển kinh tế x hội chung trn tồn thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là vấn đề nguồn nhn lực trong sự nghiệp đổi mới, xy dựng x hội chủ nghĩa hiện nay, em đ chọn đề tài tiểu luận “Nguồn lực con người - Yếu tố quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Bài tiểu luận nêu đưa ra những nội dung chính sau:
1. Quan điểm của chủ nghĩa Marx - Lenin về con người.
2. Vấn đề nguồn lực con người trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Ý kiến cá nhân về vấn đề nguồn lực con người với cái nhìn của một sinh vin Việt Nam, nguồn nhn lực trẻ của đất nước.
16 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1756 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Nguồn lực con người - Yếu tố quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến tới dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực (nguồn lực con người) được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng đước yêu cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Marx - Lenin về con người tại Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là: động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.”
Phát triển con người Việt Nam toàn diện - đó cũng chính là động lực, là mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà chúng ta đang từng bước tiến hành. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, thì chất lượng người lao động là nhân tố quyết định. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Thực tiễn đã chứng tỏ rằng không có người lao động chất lượng cao, chúng ta không thể phát triển kinh tế, không thể đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nhưng cũng chính vì nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế mà chất lượng của người lao động nước ta chưa cao. Để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này và tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì một nước còn đang ở tình trạng kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, có tầm nhìn xa trông rộng, phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Vấn đề cốt lõi là ta phải thực hiện chiến lược Giáo dục - Đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế xã hội chung trên toàn thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là vấn đề nguồn nhân lực trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng xã hội chủ nghĩa hiện nay, em đã chọn đề tài tiểu luận “Nguồn lực con người - Yếu tố quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Bài tiểu luận nêu đưa ra những nội dung chính sau:
1. Quan điểm của chủ nghĩa Marx - Lenin về con người.
2. Vấn đề nguồn lực con người trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Ý kiến cá nhân về vấn đề nguồn lực con người với cái nhìn của một sinh viên Việt Nam, nguồn nhân lực trẻ của đất nước.
B- NỘI DUNG TIỂU LUẬN
I/ Lý luận của chủ nghĩa Marx - Lenin về con người
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề luôn được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học,... Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con người.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu tranh không biết khi nào dừng. Tuỳ theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay vấn đề kia. Đồng thời, tuỳ theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc lý giải về con người. Mặt khác trong khi giải quyết những vẫn đề trên, mỗi nhà triết học, mỗi trường phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế giới quan, phương pháp luận khác nhau: quan điểm duy vật hoặc duy tâm, quan điểm triết học phương Đông hoặc phương Tây, phương pháp biện chứng hoặc siêu hình,...
1. Quan điểm triết học về con người trong lịch sử
Đề cập đến vấn đề con người các nhà triết học tự hỏi: Con người là gì? Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?... Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của muôn loài, chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng phần hồn là do thượng đế sinh ra, quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định, chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả và quá trình nhận thức đó không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó. Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Còn chủ nghĩa duy tâm chủ quan, coi cái tôi và cảm giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, cái tôi không có khả năng vượt qua cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ thuộc vào “đấng tối cao”. Các nhà triết học một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý tính người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh.
Nhìn chung, các nhà triết học duy tâm trong lịch sử triết học phương Tây lại chú trọng giác độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu biểu cho giác độ tiếp cận này quan điểm của Platon thời Cổ đại Hy Lạp, R.Descartes trong nền triết học Pháp thời Cận đại và F.Hegel trong nền triết học Cổ điển Đức. Hegel quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh thần song Hegel cũng là người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng thời Hegel cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật cơ bản của quá trình đó. Do không đứng trên lập trường duy vật, các nhà triết học này đã lý giải bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Với Platon, đó là bản chất bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối, còn với R.Descartes, đó là bản tính khi kinh nghiệm (apriori) của lý tính tuyệt đối...
Đối lập với các nhà triết học duy tâm, các nhà triết học theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề khác liên quan. Ngay từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của Democrite về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn của con người. Đây cũng là tiền đề phương pháp luận của quan điểm nhân sinh theo đường lối Epicurus... Những quan điểm duy vật như vậy đã được tiếp tục phát triển trong nền triết học thời Phục hưng và Cận đại mà tiêu biểu là các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỉ XVIII; nó cũng là một trong những tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Feuerbach. Ông phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học của Hegel. Feuerbach quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiện, là con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh. Ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì Feuerbach lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm. Trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Marx.
Bên cạnh đó giác độ tiếp cận giả quyết các vấn đề triết học về con người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương Đông. Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ các giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến những kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản tính “tự nhiên” của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ.
Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tưởng của các trường phái triết học Ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (Siêu hình học) đối với vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
Nhìn chung, các quan điểm triết họ trước Marx và ngoài Marxism có một hạn chế cơ bản là phiếm diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con người trừu tượng của chủ nghĩa duy tâm, còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng. Sinh học, tuy nhiên họ còn hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của Marx - Lenin về con người.
2. Quan điểm về con người trong triết học Marx - Lenin
Triết học Marx đã thừa kế và khắc phục những mặt hạn chế của quan điểm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời phát triển những quan điểm đó để đi tới quan điểm về con người hiện thực, con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên. Hay nói một cách khác chủ nghĩa Marx xem xét con người như một thực thể sinh học - xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó, bản chất tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá trình sinh lý trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Tuy nhiên con người không phải là một động vật thuần tuý như các động vật khác mà là một động vật có tính chất xã hội với nội dung văn hoá lịch sử của nó. Với phương pháp biện chứng duy vật triết học Marx nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cái vật chất. “Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Con người chỉ có thể tồn tại được một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là yếu tố quyết định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định bản chất xã hội nên con người, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại quy định sự hình thành cá nhân và nhân cách.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cở thể với môi trường, quy luật về trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoà chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hoá” để mang giá trị văn minh nhân loại, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo thành CON NGƯỜI, con người tự nhiên - xã hội.
Xuất phát từ quan điểm con người hiện thực, Marx đã cho thấy con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và con người với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng , đều mang tính chất xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, K.Marx dã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội, con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế, quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội,...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Điều cần lưu ý là luận đề khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhật với mặt xã hội, ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan điểm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con ngươi. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. K.Marx đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân các nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, F.Engel cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chúng là lịch sử nguồn gốc, của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiên thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”. Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình đẻ làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là củ thể sáng tạo. Thông qua đo, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
II/ Vấn đề nguồn nhân lực trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
1. Lý thuyết về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Mỗi phương thức sản xuất đều ra đời và tồn tại trên một cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng với nó. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là một nền công nghiệp lớn hiện đại, trước hết là công nghiệp nặng có đủ khả năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng phát nền sản xuất lớn Xã hội Chủ nghĩa và cải thiện đời sống nhân dân.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện hoạt động kinh tế, dịch vụ và quản lý từ trạng thái sử dụng sử dụng sức lao động là chính sang trạng tahí sử dụng sức lao động kết hợp với kỹ thuật công nghệ hiện đại tạo ra năng suất lao động ngày càng cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tính quy luật để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất là toàn bộ những tư liệu vật chất trong đó chủ yếu là công cụ sản xuất mà lao động trong xã hội sử dụng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của phương thức sản xuất trước tư bản là hết sức lạc hậu, chủ yếu là công cụ lao động thủ công. Trong Chủ nghĩa tư bản nền đại công nghiệp cơ khí hoá đã tạo cái cốt cho chủ nghĩa tư bản tồn tại. Nó khẳng định mình là một phương thức sản xuất thống trị trong lịch sử. Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản thiếu một tiền đề vật chất kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản để lại. Mặt khác Việt Nam là một nước có nền kinh tế kém phát triển, chưa có nền sản xuất lớn dựa trên nền tảng công nghiệp lớn. Do đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu nước ta phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá làm cho kinh tế nước ta dần đạt tới trình độ tiên tiến của thế giới. Thời đại ngày ngày nay cách mạng khoa học công nghệ trở thành lực lương sản xuất trực tiếp, nó vừa là nền tảng vừa là động lực của quá trình công nghiệp hoá. Đồng thời gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá sẽ tránh được nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển.
Hơn nữa công nghiệp hoá là cần thiết và có nhiều tác dụng. Đó là:
Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cao dẫn đến năng suất lao động cũng cao.
Củng cố quan hệ sản xuất mới đảm bảo cho sự thắng lợi hoàn toàn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta.
Tạo ra những điều kiện cho sự phát triển văn hoá giáo dục. Bản thân sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đòi hỏi quần chúng phải có trình độ giác ngộ cách mạng, trình độ văn hoá, trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao.
Tạo ra cơ sở cho việc phát triển kinh tế đối ngoại.
Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ phải có một nền công nghiệp hiện đại tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an ninh lương thực.
Nó là cơ sở vật chất cho củng cố an ning quốc phòng, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được bảo vệ vững chắc.
Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chuyển nền kinh tế từ lao động thủ công sang lao động cơ khí hay nói cách khác là tiến hành tranh bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân. Không tiến hành cách mạng kỹ thuật thì không thể biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền sản xuất lớn. Nó sẽ là thay đổi đến tận gốc rễ lực lượng sản xuất của xã hội. Trước tiên phải làm biến đổi công cụ lao động - thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người và là cơ sở phân biệt các thời đại với nhau. Muốn vậy ta phải thực hiện nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới. Một yếu tố không thể thiếu nữa, đó là ta phải phát huy được lợi thế so sánh. Ta đi sau cạnh tranh, thu hút, sử dụng công nghệ hiện đại của nước bạn thông qua việc chuyển giao công nghệ. Việc đó được tiến hành từ các nước khác chuyển sang nước ta bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, bao gồm cả phần cứng tức máy mọc thiết bị và phần mềm tức phương pháp và công nghệ. Nhờ đó cho phép ta khai thác được các nguồn lực trong nước và khắc phục được nguy cơ tụt hậu kinh tế cũng như thúc đẩy nền sau xuất hướng về xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Ngoài ra, ta phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, vùng kinh tế trong đó cơ cấu kinh tế ngành là quan trọng được cân đối về quy mô, về tỷ trọng, phù hợp điều kiện của tự nhiên và xu hướng phân công hợp tác lao động quốc tế. Trước hết, nó phải phù hợp với các quy luật khách quan và xu thế phát triển của khoa học công nghệ đồng thời phát huy được lợi thế so sánh trong nước. Để xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý phải chuyển dịch cơ cấu gắn liền với phân công lại lao động xã hội theo một tính quy quy luật. Trong đó tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp gia tăng, nông nghiệp giảm còn dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên phải luôn luôn đảm bảo tỷ trọng hợp lý giữa chúng một cách tương đối so với nhau. Mặt khác tỷ trọng lao động giản đơn, lao động cơ bắp giảm còn lao động phức tạp tăng lên.
Tỷ trọng (%) các khối kinh tế trong GDP
Ngành
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
1998
25,75
33,35
41
2010
17
40
43
Khi xác định chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là: nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,...), cở sở vật chất, tiềm lực khoa học kỹ thuật vốn có, các nguồn lực ngoài nước và kinh nghiệm quản lý. Trong đó vai trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển và tăng trưởng ngày càng được khẳng định, trong tất cả các quốc gia trên thế giới và đặc biệt là Việt Nam. Ở nước ta, nguồn nhân lực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ti7875u00000000 lu785300000000000000000n.doc