Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay

Gia đình là tế bào của xã hội, là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng như tái sản xuất con người, sức lao động, của cải vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình và của toàn thể cộng đồng xã hội. Đặc biệt là gia đình có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế, cũng như giữ gìn, phát huy, truyền thụ những giá trị văn hóa tinh thần từ đời này sang đời khác, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc một cách bền vững.

Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Mỗi cá nhân con người là một thành viên của gia đình, sinh ra và trưởng thành trong một gia đình. Sự tồn tại và phát triển của gia đình được phản ánh bằng sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì vậy, có thể xem gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội.

Nho giáo cho rằng, gia đình là cái nước nhỏ có một vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Những hành vi ứng xử, giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình đều được Nho giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc vào danh phận của mỗi người. Theo Nho giáo mọi thành viên trong xã hội đều bị trói buộc bởi Ngũ thường gồm Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Ngũ thường quy định hành vi ứng xử của con người nó phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong gia đình, Nho giáo rất coi trọng việc ứng xử đúng theo Ngũ luân tức là năm mối quan hệ: vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, anh - em, bạn - bè. Bởi, chỉ có thực hiện đúng Ngũ luân thì con người mới trở thành con người xã hội. Đồng thời, theo tư tưởng Ngũ thường thì nước cũng chỉ là căn nhà to, căn nhà nhỏ - gia đình hòa thuận thì căn nhà to cũng hòa thuận.

Tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo đã làm cho các thành viên trong gia đình ứng xử với nhau theo trật tự luân thường, đạo lý góp phần làm cho gia đình có văn hóa, phù hợp với cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta.

Trong phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế, một mặt phải phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, đồng thời phải kế thừa những điểm tích cực trong tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo. Bởi, ở Thừa Thiên Huế, nơi đây đã từng là thủ phủ của vương triều nhà Nguyễn, là nơi tồn tại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Học thuyết chính trị tư tưởng tiến bộ đều được giai cấp thống trị đưa lên vị trí độc tôn trong nền tảng đời sống tinh thần. Tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa gia đình con người xứ Huế. Mục tiêu cuối cùng là giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, để Thừa Thiên Huế mãi xứng đáng là di sản văn hóa thế giới trong thời kỳ hội nhập.

Vì lẽ đó, tôi quyết định chọn đề tài: "Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay" để làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân triết học.

 

doc69 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1611 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy, cô giáo trong khoa Lý luận chính trị, và toàn thể các thầy cô giáo trong trường Đại học khoa học đã dạy dỗ, truyền đạt kiến thức cho em trong thời gian học tại trường. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo Nguyễn Cảnh Chắt - người thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài khóa luận. Xin gửi lời cảm ơn đến các thành viên trong lớp Triết K31 đã chia sẽ và góp ý kiến cho tôi trong suốt thời gian qua. Huế, tháng 5 năm 2011 Sinh viên : Trần Thị Thùy MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2 3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài 3 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 3 5. Đóng góp của đề tài 4 6. Kết cấu của đề tài 4 CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM NGŨ THƯỜNG TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO 5 1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Nho giáo 5 1.1.1. Sự ra đời và phát triển của Nho giáo ở Trung Quốc 5 1.1.2. Qúa trình du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam 7 1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo về Ngũ thường 8 1.2.1. Tư tưởng về đức Nhân 9 1.2.2. Tư tưởng về đức Lễ 15 1.2.3. Tư tưởng về đức Nghĩa 21 1.2.4. Tư tưởng về đức Trí 23 1.2.5. Tư tưởng về đức Tín 25 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY 30 2.1. Quan niệm về gia đình văn hóa 30 2.1.1. Quan niệm về văn hóa và gia đình 30 2.1.2. Quan niệm về gia đình văn hóa 33 2.2. Thực trạng xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay 34 2.2.1. Xây dựng đạo đức gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay .37 2.2.2. Xây dựng nếp sống gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay 41 2.2.3. Giáo dục gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay 49 2.3. Các giải pháp nhằm xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay 54 2.3.1. Thiết lập quan hệ bình đẳng nam - nữ trong gia đình gắn liền với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế 54 2.3.2. Phát triển kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình và nâng cao dân trí gắn liền với việc xây dựng gia đình văn hóa nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình ở Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay. .56 2.3.3. Xác lập tình yêu đúng đắn trong quan hệ vợ chồng để xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận, tiến bộ, hạnh phúc. 59 2.3.4. Xây dựng gia đình văn hóa gắn liền với việc tăng cường giáo dục ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm của các thành viên đối với gia đình ở Thừa Thiên Huế hiện nay. 60 KẾT LUẬN 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là tế bào của xã hội, là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng như tái sản xuất con người, sức lao động, của cải vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình và của toàn thể cộng đồng xã hội. Đặc biệt là gia đình có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế, cũng như giữ gìn, phát huy, truyền thụ những giá trị văn hóa tinh thần từ đời này sang đời khác, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc một cách bền vững. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Mỗi cá nhân con người là một thành viên của gia đình, sinh ra và trưởng thành trong một gia đình. Sự tồn tại và phát triển của gia đình được phản ánh bằng sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì vậy, có thể xem gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội. Nho giáo cho rằng, gia đình là cái nước nhỏ có một vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Những hành vi ứng xử, giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình đều được Nho giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc vào danh phận của mỗi người. Theo Nho giáo mọi thành viên trong xã hội đều bị trói buộc bởi Ngũ thường gồm Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Ngũ thường quy định hành vi ứng xử của con người nó phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong gia đình, Nho giáo rất coi trọng việc ứng xử đúng theo Ngũ luân tức là năm mối quan hệ: vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, anh - em, bạn - bè. Bởi, chỉ có thực hiện đúng Ngũ luân thì con người mới trở thành con người xã hội. Đồng thời, theo tư tưởng Ngũ thường thì nước cũng chỉ là căn nhà to, căn nhà nhỏ - gia đình hòa thuận thì căn nhà to cũng hòa thuận. Tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo đã làm cho các thành viên trong gia đình ứng xử với nhau theo trật tự luân thường, đạo lý góp phần làm cho gia đình có văn hóa, phù hợp với cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Trong phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế, một mặt phải phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, đồng thời phải kế thừa những điểm tích cực trong tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo. Bởi, ở Thừa Thiên Huế, nơi đây đã từng là thủ phủ của vương triều nhà Nguyễn, là nơi tồn tại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Học thuyết chính trị tư tưởng tiến bộ đều được giai cấp thống trị đưa lên vị trí độc tôn trong nền tảng đời sống tinh thần. Tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa gia đình con người xứ Huế. Mục tiêu cuối cùng là giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc, để Thừa Thiên Huế mãi xứng đáng là di sản văn hóa thế giới trong thời kỳ hội nhập. Vì lẽ đó, tôi quyết định chọn đề tài: "Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay" để làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân triết học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Nho giáo là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học, của nhiều ngành, nhiều giới. Từ trước đến nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo ở nước ta. Trong đó có: Nho giáo của Trần Trọng Kim, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm, Viện KHXHNV, Hà Nội, 1994; Đạo Nho và văn hóa phương Đông của Hà Thúc Minh, Nxb Giáo dục, 2001; Mối quan hệ giữa Nhân và Lễ trong học thuyết Khổng Tử của Nguyễn Thị Thanh Hải, Luận văn Thạc sĩ, ĐHKH Huế, 2004; Tư tưởng Nhân, Lễ, Chính danh trong tác phẩm Luận ngữ của Khổng Tử và vận dụng giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Thanh Bình, Luận văn Thạc sĩ, ĐHKH Huế, 2005... Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết trên các tạp chí, các báo đã đề cập đến vấn đề này. Nhưng nhìn chung, các đề tài nghiên cứu ấy đã nghiên cứu một cách tổng quát nhất sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với các lĩnh vực của xã hội Việt Nam. Việc nghiên cứu tư tưởng Ngũ thường trong triết học Nho với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay đang nằm trong hệ thống chung chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể. Trên cơ sở tiếp thu và hệ thống hóa kiến thức, những quan điểm khoa học của những người đi trước dưới góc độ triết học Mác - Lênin tôi sẽ nghiên cứu rõ hơn về Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay. 3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài: Chỉ ra những dấu ấn mà tư tưởng Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay, đồng thời cũng làm rõ nét khác biệt nổi bật trong văn hóa gia đình ở Thừa Thiên Huế khác với các vùng trong cả nước. Từ đó, nghiên cứu thực trạng và có những giải pháp cụ thể nhằm xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tư tưởng Ngũ thường trong lịch sử tư tưởng triết học Nho giáo ở Trung Quốc và trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Những biểu hiện của tư tưởng Ngũ thường và thực trạng của việc xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài Cơ sở lý luận của đề tài Đứng trên quan điểm của phép biện chứng duy vật trong quá trình nghiên cứu đề tài như: quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng gia đình văn hóa. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lôgíc và lịch sử... 5. Đóng góp của đề tài Đề tài đã nêu lên một cách có hệ thống, khoa học về tư tưởng Ngũ thường trong triết học Nho giáo. Đồng thời, làm rõ quan niệm về gia đình văn hóa trong cả nước. Mặt khác, đề tài còn làm rõ thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay. Tuy vậy, phạm vi nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp này, do khả năng còn hạn chế, tác giả lại sống ở Huế chưa lâu nên việc nghiên cứu còn chưa thực sự đầy đủ và hoàn chỉnh. Do vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu về sau. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, bố cục của đề tài gồm có hai chương, chương 1 có 2 tiết, chương 2 có 3 tiết và Danh mục tài liệu tham khảo. CHƯƠNG 1 QUAN ĐIỂM NGŨ THƯỜNG TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO 1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của Nho giáo 1.1.1. Sự ra đời và phát triển của Nho giáo ở Trung Quốc Nho giáo ra đời cách đây hơn 2500 năm ở Trung Hoa cổ đại, gắn liền với tên tuổi người sáng lập là Khổng Tử. Ông sinh năm 551TCN, ở nước Lỗ, trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi còn nhỏ, tuy gia cảnh nghèo khó nhưng ông vẫn có điều kiện học sớm và rất ham học. Ở thời đại Khổng Tử thì chế độ tông pháp nhà Chu đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi. Khổng Tử muốn đem tài sức mình ra giúp vua, với hy vọng lập lại trật tự lễ, nghĩa của nhà Chu và cải thiện cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Nhưng không được vua nước Lỗ trọng dụng, ông chu du đến các nước chư hầu với mong muốn được mang lý tưởng cải tạo xã hội ra giúp nước, trị dân, cứu đời nhưng không thành. Cuối đời Ông san định Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và biên soạn cuốn Xuân Thu. Đến năm 479 TCN Khổng Tử qua đời. Trong cuộc đời dạy học của mình, những lời dạy của thầy đã được các học trò ghi lại và tập hợp lại thành bộ "Luận Ngữ". Về sau Tăng Sâm đã viết nên cuốn Đại học, học trò của Tăng Sâm là Khổng Cấp đã viết nên cuốn Trung dung. Sang thời Chiến quốc, Mạnh Tử đã ra sức bảo vệ Nho giáo, thường xuyên tỏ thái độ tôn sùng vương đạo, khinh bỉ bá đạo, tôn sùng nhân, nghĩa, khinh bỉ thói mưu lợi. Từ những đòi hỏi của thực trạng xã hội lúc bấy giờ, Mạnh Tử đã đề cập đến nhiều vấn đề cụ thể của đời sống chính trị và kinh tế nhiều hơn thầy Khổng Tử. Mạnh Tử đã tập hợp và ghi lại những cuộc biện luận của mình thành tập gọi là "bảy thiên" Mạnh Tử. Mạnh Tử cùng với Luận ngữ, Đại học và Trung dung tập hợp thành bộ Tứ thư và cùng với Ngũ kinh đã trở thành tài liệu chính thức của Nho giáo. Thời Đông Chu kéo dài trong cảnh rối ren, loạn lạc, trước tình hình này đẩy toàn bộ triều đại nhà Chu và hình thái kinh tế xã hội của nó đến chỗ kết thúc. Thực trạng này đòi hỏi Nho giáo muốn tồn tại và phát triển được thì phải vượt qua khủng hoảng. Thực tế đạo lý Nho giáo không thể chấm dứt được tình trạng loạn lạc. Từ quyền lợi của giới kinh doanh, Tần Doanh Chính đã thống nhất Trung Hoa và xưng hoàng đế. Nho giáo, đạo lý làm vũ khí tinh thần bảo vệ nề nếp thể chế nhà Chu cũng phải chịu sự phán quyết của thế lực đang lên. Tần Doanh Chính đã ra chủ trương đốt sách, chôn nho sĩ "phần thư khanh nho" đã làm cho Nho giáo phải lao đao khốn đốn. Với những chính sách tàn bạo của nhà Tần đã gặp phải sự lên án và buộc tội của nhiều người, nhất là những thế lực đại biểu cho xu thế mới của xã hội. Lưu Bang đã giành thắng lợi, triều đại nhà Hán bắt đầu. Từ đây Nho giáo bắt đầu dần dần lấy lại ưu thế của mình và trở thành vũ khí tinh thần của nhà Hán. Triều đại nhà Hán nổi lên một nhân vật quan trọng đó là Đổng Trọng Thư. Ông đã bổ sung vào học thuyết Khổng - Mạnh phần nói về trời đất, quỷ thần, âm dương, ngũ hành mà Khổng Tử, Mạnh Tử cố né tránh hoặc nói sơ qua. Đồng thời hệ thống hóa học thuyết này một cách tương đối hoàn chỉnh, vừa làm cho quân quyền và thần quyền quyện chặt vào nhau. Từ thế kỷ XVI trở đi triều đại nhà Minh, triều đại nhà Thanh gắn với sự tiếp xúc văn hóa phương Tây đã đặt ra những vấn đề không thể giải quyết được dưới ánh sáng của đạo Nho. Cùng với sự trao đổi hàng hóa, giao lưu văn hóa Đông Tây, các triết lý của các nhà tư tưởng dân chủ ..., thực tế cuộc sống đã làm nảy sinh trong đầu óc nhà Nho những nỗi băn khoăn khó quyết định. Đến cuối triều đại nhà Thanh một số nhân vật tiêu biểu đã hấp thụ được nhiều tư tưởng mới ở Tây Âu về "tự do", "bình đẳng", "dân chủ". Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu cũng muốn xây dựng và phát triển Trung Quốc theo hướng công nghiệp và chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật, nhưng cuối cùng họ đi đến "cải lương" và "duy tâm" dưới ngọn cờ của Hoàng đế triều Thanh. Mãi cho đến 1911 cách mạng Tân Hợi đã giành thắng lợi, Trung Quốc mới bắt đầu từ vũng bùn phong kiến dần dần bức lên. Đến đây lịch sử Nho giáo gắn liền với các triều đại phong kiến Trung Quốc cơ bản đã kết thúc, song những ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay. 1.1.2. Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam Lịch sử Nho giáo ở Trung Quốc kéo dài hơn 2500 năm thì ở Việt Nam, Nho giáo cũng đã có lịch sử hàng ngàn năm. Trong suốt một ngàn năm đô hộ nước ta, các thế lực phương Bắc đã dùng Nho giáo làm công cụ đồng hóa dân tộc ta. Không chịu sự đồng hóa, dân tộc ta đứng lên chống lại ách đô hộ và tư tưởng Nho giáo để xây dựng xã hội phong kiến bảo vệ lợi ích của các triều đại. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo đã không thể bám rễ được vào mảnh đất Việt Nam. Nhưng nó lại được tiếp thu sau khi dân tộc ta giành được độc lập từ thế kỷ thứ X. Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX, Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Việt Nam và góp phần không nhỏ trong việc tạo thành diện mạo của dân tộc. Trong việc xây dựng xã hội phong kiến, các triều đại phong kiến Việt Nam đã giành cho Nho giáo địa vị ngày một quan trọng hơn trong hệ tư tưởng. Từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX, Nho giáo được giữ địa vị độc tôn. Nho giáo thời kỳ đầu có những yếu tố tích cực như tư tưởng đại đồng, hiếu với cha mẹ..., bên cạnh đó, nó cũng có những yếu tố tiêu cực như tư tưởng trọng nam khinh nữ, tính gia trưởng. Một mặt, Nho giáo đã phát huy được những yếu tố tích cực góp phần tạo nên những thời kỳ thịnh trị của xã hội phong kiến và tạo ra những nhà giáo dục, nhà chính trị, nhân hóa tài năng, đức độ như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn..., mặt khác Nho giáo cũng bị các thế lực phản động lợi dụng mặt hạn chế làm vũ khí tư tưởng chống lại dân tộc, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Ngọn cờ của anh em nhà Tây Sơn đã tạo nên một xu thế tập hợp mới. Tuy vậy vẫn chưa vượt ra khỏi hình thái kinh tế xã hội phong kiến. Sau khi đánh tan quân Mãn Thanh và bè lũ tay sai của nó. Nguyễn Huệ đã tỏ rõ quyết tâm nhất quán đi tới những sự đổi mới về tổ chức, chính trị, quân sự và một số chính sách về ruộng đất, chủ trương dùng chữ Nôm chính thức. Nhưng sự thay đổi mới chưa hoàn thành thì Nguyễn Huệ qua đời. Nguyễn Ánh đã đi theo vết xe đổ của Lê Chiêu Thống "rước voi" về giày xéo đất nước. Triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng giặc, đổi đất nước để lấy ngai vàng. Triều Nguyễn cần đến lễ giáo Nho giáo với mục đích giữ lấy địa vị của mình. Các vua triều Nguyễn đã triệt để lợi dụng và khai thác Nho giáo về các giá trị đạo đức như Tam cương, Ngũ thường..., nhằm tăng cường sự ràng buộc của vua đối với bề tôi, của cha anh đối với con em, của bề trên đối với bề dưới. Sự pha trộn của các nền văn hóa, các tôn giáo và các dòng tư tưởng ở phương Đông và phương Tây trong xã hội Việt Nam đang đẩy sự suy tàn của xã hội phong kiến thêm nhanh chóng. Nếu như trước đây, Nho giao chỉ chấp nhận đạo lý của Phật giáo và Lão giáo thì giờ đây Nho giáo phải thừa nhận với cả đạo Thiên chúa giáo nữa. Trải qua các triều đại phong kiến, chưa bao giờ Nho giáo lại thể hiện sự phản động như triều đại nhà Nguyễn. Trên đất nước ta, Nho giáo đã có lịch sử lâu đời, trải qua nhiều giai đoạn với những bước thăng trầm khác nhau và không có một trường phái nào nổi bật cả. Các danh Nho Việt Nam không có sự sáng tạo gì đóng góp vào học thuyết mà chỉ thể hiện rõ khí chí, bản lĩnh, tiết tháo của mình trước những sự việc bất bình của xã hội. Ngày nay chúng ta phê phán Nho giáo dựa trên lập trường triết học Mác - Lênin. Từ đó kế thừa và phát huy những nhân tố tích cực của nó để phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước. 1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo về Ngũ thường Trong học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo, con người bị ràng buộc, chi phối bởi vô vàn những mối quan hệ chồng chéo, đan xen hết sức phức tạp. Ứng với các mối quan hệ ấy, Nho giáo đã đưa ra những quy phạm, những chuẩn mực đạo đức ràng buộc, cột chặt con người vào trong những mối quan hệ, định rõ trách nhiệm của các thành viên trong gia đình và ngoài xã hội. Những quy phạm, những chuẩn mực đạo đức đó gộp thành "đạo làm người". Theo Nho giáo thì đạo làm người thông thường có năm bậc, nó phản ánh năm mối quan hệ cơ bản của xã hội loài người. Đó là các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Để có thể xử lý tốt năm mối quan hệ đó Khổng Tử đề ra ba đức lớn: Nhân, Trí, Dũng. Mạnh Tử bỏ Dũng bổ sung thêm Nghĩa và Lễ thành Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, gọi là tứ đoan (Bốn đầu mối) biểu hiện bản tính thiện của con người. Về sau Đổng Trọng Thư lại bổ sung thêm chữ Tín, thành: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí ,Tín được gọi là Ngũ thường. Kết hợp Ngũ luân với Ngũ thường tạo thành đạo luân thường, còn nếu kết hợp Tam cương với Ngũ thường thì trở thành đạo cương thường. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài khóa luận này, tác giả chỉ trình bày những tư tưởng cơ bản của Nho giáo về Ngũ thường có ảnh hưởng đến quá trình xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay. 1.2.1. Tư tưởng về đức Nhân Nhân là phạm trù "hạt nhân” trong học thuyết của Nho giáo, được xem là tư tưởng xuyên suốt của trường phái này. Mặc dù vậy, khi Nho giáo quan niệm về Nhân thì có nhiều cách quan niệm khác nhau, song chúng ta cũng có thể hiểu Nhân với nghĩa như sau. Trong triết học Trung quốc có hai chữ Nhân, nhân nghĩa là người, con người và nhân nghĩa là nhân ái, nhân đức là bản tính của con người. Cũng trong triết học Trung quốc nhân bao gồm chữ nhân đứng kết hợp với chữ nhị có nghĩa là đạo làm người. Như vậy, nhân theo nghĩa hẹp là một phẩm chất đạo đức cụ thể, cơ bản và nền tảng của con người. Theo nghĩa rộng, Nhân bao gồm mọi đức của con người như lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu, trung..., đây là những phẩm chất có ý nghĩa bao trùm lên mọi đức tính. Nhân là đạo làm người, là cách cư xử của mình đối với người, là yêu người, là bác ái. Nhân là quy phạm nguyên tắc đạo đức chủ yếu nhất có tính phổ biến nhằm chi phối ràng buộc con người trong việc tu dưỡng hoàn thiện đạo đức của mình và ràng buộc mọi hành vi ứng xử trong các quan hệ xã hội giữa người với người, giữa người với mọi giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Nhân còn là phạm trù đạo đức mang tính chất chính trị là công cụ chính trị và nhằm mục đích chính trị. Nhân được biểu hiện qua những việc làm cụ thể của con người như cung kính với bề trên, nhân nhượng với người dưới, trung thực với người, quan trọng hơn cả là lòng yêu thương con người. Nếu làm trái với những điều đó thì đều là làm trái với đức Nhân. Qua đó để khẳng định Nhân là đạo đức của con người, là hành vi ứng xử, là cách đối nhân xử thế giữa người với người. Nhân vừa bao la vô cùng nhưng Nhân cũng rất gần gũi với mọi người, Nhân gắn liền với bản chất tự nhiên của con người. Nếu hiểu theo tinh thần của Nho giáo thì nó là tinh thần chính trị, của đạo đức con người, là tinh thần của "Lễ", "Nhạc". Cho nên sách Nho định nghĩa: "Nhân là người và yêu người. Yêu người bắt đầu từ mình đến người gắn với mình cho đến quốc gia, xã hội, đây là tình, là hiếu, là trung, là nhân ái" [15, 22 ]. Nếu Nhân chỉ là yêu người thôi thì hoàn toàn chưa đủ, mà Nhân còn là yêu người một cách vô tư không gượng ép, đó là bản tính vốn có của con người. Từ Nhân mới nảy sinh ra các đức khác, Nhân là gốc để sinh ra Hiếu, Lễ, Trí, Tín... Ngược lại các đức ấy lại hội tụ ở Nhân. Như vậy Nhân là phạm trù bao quát và toàn diện nhất. Trong lịch sử Nho học, phạm trù Nhân không phải đến đời Khổng Tử mới có mà quan niệm này đã có từ rất lâu. Sách Kinh Dịch cho rằng: "lập đạo của trời nói rằng âm và dương, lập đạo của đất nói về nhu và cương, lập đạo của người nói về Nhân và Nghĩa” [15, 23 ]. Đến thời Khổng Tử quan niệm về Nhân mang tính chất mới mẻ hơn và sâu sắc hơn. Trong suốt cuộc đời của mình, Khổng Tử luôn mang hoài bão đưa tư tưởng của mình, học thuyết của mình để hướng con người đạt đến điều Nhân, thực hiện đường lối trị nước bằng đạo đức (đức trị) để xây dựng một xã hội thái bình thịnh trị. Phạm trù Nhân được Khổng Tử đề cao là tư tưởng chủ đạo, trong tác phẩm Luận ngữ, Ông đã nói đến khoảng 105 lần về Nhân. Song, Nhân là gì ? thì Khổng Tử không có một định nghĩa cụ thể nào, đối với mỗi học trò, từng hoàn cảnh, mà Khổng Tử có một cách giải thích khác nhau về Nhân. Người đầu tiên hỏi Khổng Tử về đức Nhân trong tác phẩm luận ngữ là Phan Trì, có lẽ Khổng Tử đánh giá đây là một học trò kém nhất nên trả lời câu hỏi thế nào là Nhân của Phan Trì, Khổng tử đáp: "Người Nhân làm những việc khó khăn trước, còn hiệu quả lượm được thì về sau, như vậy mới có thể là Nhân được" [20, 199 ]. Rõ ràng theo quan niệm của Khổng Tử Nhân không phải là một cái khuôn định sẵn và chỉ có đến được với cái khuôn đó thì mới là Nhân. Và ở đây Ông cho rằng, với người bình thường thì yêu cầu của Nhân cũng rất bình thường, chỉ là chịu khó làm lụng để đạt kết quả tốt mà thôi. Lần thứ hai, Khổng Tử có cách giải thích về Nhân với Phan Trì, Ông chỉ nói ngắn gọn đó là "ái nhân" có nghĩa là yêu người. Cũng nói về Nhân, song khi trả lời Nhan Uyên, một trong những học trò được Khổng Tử đánh giá là xuất sắc nhất. Khổng Tử lại giải thích theo cách khác: "Dẹp bỏ tư dục làm theo điều lễ là làm điều Nhân. Một ngày dẹp bỏ được tư dục của mình và làm theo điều Lễ thì trong thiên hạ cũng theo về điều Nhân. Làm điều Nhân là do nơi mình há tại người khác sao” [20, 398]. Qua đó để ta thấy với Khổng Tử đức Nhân chẳng ở đâu xa mà ngay chính trong lòng, trong tâm của mỗi người. Con người muốn đạt được điều Nhân thì dẹp bỏ tất cả tư dục mà làm theo điều Lễ. Bởi theo quan niệm của Nho giáo Khổng Mạnh thì Nhân là ở "đức tâm" người mà không có lòng nhân đức thì làm sao mà thi hành lễ tiết? người mà không có lòng nhân đức làm sao mà dùng âm nhạc? kẻ bất nhân chẳng thể bền chịu với cảnh nghèo túng, chẳng có thể an nhiên lâu dài trong cảnh khoái lạc. Người Nhân thì an vui với lòng của mình, ở cảnh nào cũng ung dung, thảnh thơi, yên ổn. Bậc trí thì biết lợi dụng lòng nhân, tùy thời mà làm cho đức nhân hậu của mình ngày càng gia tăng. Duy có bậc nhân mới biết thương người và ghét người chính đáng mà thôi . Khổng Tử nói: "Mỗi người tùy theo đảng của mình mà phạm lỗi. Cho nên khi quan sát cái lỗi của mỗi người, mình có thể biết người ấy có nhân hay không". "Ta chưa thấy người nào thật tình yêu điều nhân và thật tình ghét điều bất nhân. Người thật yêu điều nhân thì không cho điều gì hơn điều nhân được. Người thật ghét điều bất nhân trong khi làm điều nhân thì không cho điều bất nhân vướng vào mình. Có ai trọn ngày dùng hết sức mình làm điều nhân chăng? Ta chẳng thấy ai đủ sức mà làm điều nhân hoặc cũng có nhưng mắt ta chưa thấy" [5, 4]. "Trò Hồi ba tháng lòng chẳng lìa điều Nhân. Còn các đệ tử khác người thì giữ được một ngày kẻ thì giữ được một tháng là cùng. "Nên tâm trí ở đạo lý, nên giữ gìn đức hạnh, nên làm theo điều Nhân, chơi theo lục nghệ. Đức Nhân có phải ở xa ta chăng? Nếu ta muốn đức Nhân thì đức Nhân ấy đến liền nơi ta vậy". "Người có chí và có Nhân chẳng lẽ vì bảo tồn sinh mạng mà hãm hại đức Nhân, hạng người ấy có khi phải tự mình quyên sinh để giữ tròn đức Nhân vậy". "Kẻ nào miệng nói lời hoa mỹ còn mặt mày thì trau chuốt, hình dáng thì kiểu cách, quần áo thì lòe loẹt thì kẻ ấy hẳn kém lòng Nhân" [5, 4]. Còn Mạnh Tử nói," Có Nhân thì vinh hiển, không Nhân thì nhục nhã. Hiện nay, các bậc vua chúa đều ghét sự nhục nhã nhưng vẫn ăn ở, sống bất Nhân. Như vậy có khác nào mình ghét chỗ ẩm ướt mà cứ ở chỗ thấp". "Người quân tử sở dĩ khác với người thường là biết giữ gìn tâm của mình. Người quân tử dùng đức Nhân để giữ gìn tâm của mình, lấy Lễ để giữ gìn tâm của mình. Có Nhân thì yêu thương người, có Lễ thì kính người. Mình thương người ta thì người ta luôn thương mình, mình kính người ta thì người ta luôn kính mình". "Nhân là nhân tâm nghĩa là con đường chính đại của con người". Mạnh Tử viết," chưa hề có người quý đức Nhân mà lại bỏ bê cha mẹ, bà con mình, chưa hề có người trọng đức Nghĩa mà coi việc vua việc nước nhẹ hơn việc riêng tư của mình. Vậy thì vua nên nói đến Nhân, Nghĩa mà thôi, cần gì phải nói đến lợi". "Học không biết chán đó là Trí, dạy không biết mệt là Nhân vậy". "Mình yêu thương người mà người chẳng thấu đến mình, vậy nên mình tự xét xem mình đã đủ lòng Nhân hay chăng". "Lòng trắc ẩn chính là Nhân vậy". Lần khác Khổng Tử trả lời Tử Cống về Nhân ông nói: "Người Nhân mình muốn thành lập mà làm cho người được thành lập; mình muốn thông đạt mà làm cho người khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKL-ThuyVan.doc