“Ngòi nổ” vốn ngoại trên thị trường chứng khoán

11 tháng qua, gần 1 tỷ USD đã được các NĐT nước ngoài đổ

vào Việt Nam qua TTCK, trong đó có tỷ trọng đáng kể dành

cho cổ phiếu.

Đó là chưa tính 1 tỷ USD trái phiếu mà Bộ Tài chính huy động hồi

đầu năm.

Nhiều sản phẩm phái sinh được các NĐT nước ngoài triển khai

phổ biến ngoài Việt Nam cho thấy nhu cầu cấp thiết mở rộng về

chính sách để tăng cường thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp

nước ngoài (FII) vào Việt Nam.

pdf12 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1017 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu “Ngòi nổ” vốn ngoại trên thị trường chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Ngòi nổ” vốn ngoại trên TTCK 11 tháng qua, gần 1 tỷ USD đã được các NĐT nước ngoài đổ vào Việt Nam qua TTCK, trong đó có tỷ trọng đáng kể dành cho cổ phiếu. Đó là chưa tính 1 tỷ USD trái phiếu mà Bộ Tài chính huy động hồi đầu năm. Nhiều sản phẩm phái sinh được các NĐT nước ngoài triển khai phổ biến ngoài Việt Nam cho thấy nhu cầu cấp thiết mở rộng về chính sách để tăng cường thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) vào Việt Nam. Dịch chuyển sang cổ phiếu Số liệu mới nhất của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) cho thấy, tính đến cuối tháng 11, vốn đầu tư nước ngoài vào ròng (lượng vào trừ lượng ra) đạt 920 triệu USD. Lượng vốn vào theo từng tháng khá đều đặn. Đặc biệt, 6 tháng trở lại đây, vốn vào rất đều, có tháng cao điểm, vốn vào ròng đạt trên 150 triệu USD. * Số lượng DN niêm yết có tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của NĐT nước ngoài đạt 49% là 7/633, trong đó 4 DN trên HNX, 3 DN trên HOSE. * Số lượng DN niêm yết có tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của NĐT đạt trên 20% là 132/633, trong đó 69 DN trên HNX, 63 DN trên HOSE (có 2 DN đạt tỷ lệ 48,99%, 1 DN đạt tỷ lệ 48,96%). * Tổng giá trị cổ phiếu do NĐT nước ngoài nắm giữ đạt 24,58%, trong đó trên HNX đạt 14,21%, trên HOSE đạt 29,10%. Chất lượng dòng vốn này ra sao? Căn cứ vào thời hạn đăng ký và công cụ đầu tư thì có thể xếp những khoản đầu tư vào ngắn hạn với mục đích tận dụng lãi suất cao tại Việt Nam hoặc tận dụng khả năng thanh khoản của TTCK là vốn nóng. Song, trong số hơn 900 triệu USD trên, thống kê của UBCK cho thấy, có tới 600 triệu USD được đổ vào mua ròng cổ phiếu, mặc dù mức độ thanh khoản của thị trường chưa thể so sánh được với thời kỳ trước đây. Phần còn lại tập trung vào thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu chưa niêm yết. So với con số ra ròng hơn 200 triệu USD của năm 2009, thì con số 2 tỷ USD vốn FII mà Việt Nam thu hút được trong 11 tháng qua là khá ấn tượng. Kể từ sau đợt khủng hoảng kinh tế năm 2008, đầu năm 2009, danh mục đầu tư của khối ngoại đã có sự dịch chuyển mạnh từ trái phiếu sang cổ phiếu; trước khủng hoảng, trái phiếu chiếm 85%, nhưng hiện chỉ còn khoảng 12%, không tính lượng trái phiếu chính phủ huy động trên thị trường vốn quốc tế. Giá trị danh mục của các NĐT nước ngoài tính đến cuối tháng 10/2010 đạt 6,5 tỷ USD (chưa tính 1 tỷ USD trái phiếu Bộ Tài chính huy động hồi đầu năm). Điều này phản ánh đánh giá của NĐT nước ngoài về tiềm năng trong trung và dài hạn của TTCK Việt Nam, đặc biệt là thị trường cổ phiếu. Đổi màu Nếu như trước kia, vốn FII đổ vào Việt Nam thông qua con đường truyền thống là huy động quỹ, có hiện diện thương mại tại Việt Nam thông qua các công ty quản lý quỹ…, thì nay vốn ngoại vào Việt Nam đã có những hình thái mới. Đầu tuần này, Báo Investment U của Mỹ đã khuyên các NĐT mua chứng khoán tổng hợp Việt Nam (MarketVectors Vietnam). Loại chứng khoán này được giao dịch tại TTCK New York vào tháng 8/2009, với 68% được đầu tư mua cổ phần của các công ty Việt Nam, số còn lại vào các công ty trên toàn thế giới có hoạt động kinh doanh lớn tại Việt Nam. Đây là một dạng sản phẩm theo chỉ số, phổ biến ở nước ngoài. Một sản phẩm đang được nhiều tổ chức nước ngoài tại Việt Nam đề nghị được triển khai là phát hành chứng chỉ lưu ký (DR). Có thể hiểu nôm na như sau: nhà môi giới chứng khoán của NĐT nước ngoài liên hệ với CTCK trong nước và yêu cầu mua cổ phần của tổ chức phát hành. Sau đó, những cổ phần này được lưu ký tại bộ phận lưu ký trong nước thuộc ngân hàng lưu ký nước ngoài. Căn cứ vào xác nhận lưu ký, bộ phận lưu ký sẽ nhận được cổ phiếu, khi đó ngân hàng lưu ký sẽ phát hành đủ số lượng DR cho NĐT thông qua CTCK. DR có thể được phát hành dưới hình thức chứng chỉ và được giao dịch, thanh toán giống như chứng khoán ở nước ngoài. Tuy nhiên, chúng cũng có thể bị huỷ. Trong trường hợp này, CTCK thay mặt cho người nắm giữ DR yêu cầu ngân hàng lưu ký huỷ DR và bán lại số cổ phần của tổ chức phát hành tại thị trường trong nước. Sau khi số cổ phần đã được bán, tiền thu được sẽ được chuyển cho NĐT nước ngoài vừa đề nghị huỷ những DR này. Theo thống kê của Citibank Group, việc phát hành DR đã trở thành kênh phát hành huy động vốn chủ yếu, tăng từ 11% lên 74% trong tổng lượng IPO quốc tế. Tổng cộng trên toàn thế giới hiện có khoảng 4.000 chương trình DR của các DN thuộc 76 quốc gia vẫn còn hiệu lực. Ấn Độ là quốc gia có nhiều chương trình nhất, với số lượng gần 300 chương trình. Những hình thức đầu tư trên tạo ra tính linh hoạt rất lớn, tổ chức phát hành không có sự hiện diện thương mại tại Việt Nam, NĐT tham gia mua bán chứng chỉ không phải chịu rủi ro tỷ giá. Cách thức đầu tư này cũng trao quyền rất lớn cho nhà phát hành trong mua bán chứng khoán tại Việt Nam, trong việc hợp lý hóa các khoản chi cần thiết. “Chỉ cần lợi nhuận 5 - 10%, so với lãi suất chưa đầy 1% tại nước họ, đơn cử như Mỹ, Nhật Bản, thì đây có thể là một kênh đầu tư hấp dẫn”, tổng giám đốc một công ty quản lý quỹ nói. Với nhu cầu về vốn đầu tư để duy trì đà tăng trưởng của nền kinh tế, cũng như sự cần thiết phải ổn định cán cân thanh toán, có lẽ cần nghiên cứu những sản phẩm chứng khoán mới đa dạng hơn, chào bán cho NĐT nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho họ tiếp cận TTCK dưới nhiều hình thức khác nhau, cũng như tiếp tục phát triển và lành mạnh hóa TTCK nói chung, để thị trường này trở thành một điểm sáng thu hút dòng vốn FII. Ông Johan Nyvene: Tổng giám đốc CTCK HSC HSC là CTCK thu hút được nhiều NĐT nước ngoài có tổ chức. Trong năm 2010, một số khách hàng tại HSC huy động thêm vốn mới và họ đã giải ngân xong. Tuy nhiên, gần đây, chúng tôi không ghi nhận chuyển biến đặc biệt nào từ giao dịch của khối này. Nhìn từ bên ngoài, có lẽ họ vẫn quan ngại về việc một số tổ chức xếp hạng tín dụng giảm hạng tín dụng của Việt Nam, chuyện giải quyết công nợ của Vinashin vẫn chưa kết thúc. Bên cạnh đó là một số yếu tố vĩ mô trong nước như lạm phát, tỷ giá, thâm hụt thương mại… đang tạm thời mất cân đối. Thực sự thì hai yếu tố ban đầu chỉ ảnh hưởng mạnh đến thị trường trái phiếu hay gây quan ngại cho các chủ nợ Việt Nam. Mới đây, tôi nhận được thông tin về một quỹ đầu tư đến từ châu Âu đang dự kiến huy động một quỹ mới có quy mô vốn lên tới hàng trăm triệu USD để đầu tư vào Việt Nam. Ông Louis Nguyễn: Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Quỹ Saigon Asset Management (SAM) Hồi đầu năm, chúng tôi có kế hoạch huy động vốn mới, tuy nhiên điều đó đã không trở thành hiện thực. Đây cũng là khó khăn chung của các đồng nghiệp ở nhiều công ty quản lý quỹ. Về hoạt động của khối NĐT nước ngoài, gần đây tôi ghi nhận trường hợp của Indochina Capital huy động vốn cho quỹ mới. Tuy nhiên, số tiền 180 triệu USD được giải ngân trong lĩnh vực bất động sản, chứ không phải chứng khoán. Hiện tại, nhìn ra xung quanh có thể thấy, chứng khoán Việt Nam đang nằm ở “vùng trũng” của khu vực, khi chỉ số P/E chỉ từ 9 - 10 lần, khá thấp so với các nước láng giềng. Mặc dù vậy, dòng vốn của các NĐT quốc tế vẫn chưa chảy nhiều vào Việt Nam. Giải thích điều này có lẽ phải lặp lại một điều không còn mới mẻ: vấn đề lạm phát, tỷ giá và thâm hụt thương mại… là các rủi ro ngắn hạn. Tôi kỳ vọng, các vấn đề này sẽ được giải quyết trong quý tới và quý II/2011, thị trường được tiếp thêm sinh khí. Ông Phan Minh Tuấn: Giám đốc Công ty Quản lý quỹ Dragon Capital Tôi cho rằng, giai đoạn 2011 - 2012, NĐT nước ngoài sẽ tham gia TTCK Việt Nam nhiều hơn. Trước hết, Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định trong suốt các năm vừa qua và được dự báo là duy trì được đà phát triển trong thời gian tới. Thứ hai, nhìn theo các yếu tố cơ bản hay phân tích kỹ thuật thì TTCK Việt Nam đang ở trong vùng "rẻ tương đối" so với TTCK các nước khác. Tuy nhiên, để đẩy nhanh việc tham gia của các quỹ đầu tư nước ngoài,Việt Nam cần làm tốt hơn nữa 3 việc. Một là, công bố thông tin kịp thời, đều đặn để thị trường minh bạch hơn. Bên cạnh đó, cần có cơ chế thông tin tới các NĐT hàng tháng, hàng quý. Thứ hai là đẩy mạnh việc cổ phần hóa. Trong đó, nên coi việc bán cổ phần cho đối tác nước ngoài là bán cho đối tác chiến lược để giúp DN tốt hơn sau cổ phần hóa, chứ không phải để bán tài sản của nhà nước với giá cao nhất. Thứ ba, Chính phủ đưa ra thông điệp rõ ràng, ổn định về chính sách vĩ mô, bảo vệ NĐT. Về phía Dragon Capital, trong năm 2010, chúng tôi đã tái cấu trúc công ty và các hoạt động cho phù hợp với điều kiện thị trường. Chúng tôi cũng đã, đang và sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc giao tiếp với NĐT nước ngoài để họ hiểu hơn về Việt Nam, từ đó tạo tiền đề để họ đầu tư vào Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfngoi_no.pdf
Tài liệu liên quan