Tài sản di sản (TSDS) là loại tài sản (TS) đặc biệt mang tính chất lịch sử, nghệ thuật,
công nghệ, địa lý và môi trường, là TS có giá trị lớn, có tuổi đời hàng trăm năm, rất khó xác
định giá trị, nhiều TSDS là vô giá. Tuy nhiên, TSDS đặc biệt có ý nghĩa trong phát triển
ngành công nghiệp không khói (du lịch), việc kế toán TSDS sẽ làm thay đổi tư duy trong quản
lý và bảo tồn TSDS và đem lại lợi ích cho quốc gia, hay tổ chức đang sở hữu chúng. Trong
những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu để đưa các tài sản văn hoá này vào các báo cáo tài
chính hàng năm nhưng việc đo lường giá trị TSDS còn gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay,
cách tiếp cận kế toán hiện tại đối với TSDS chưa đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin hữu ích
cho các bên liên quan. Do đó, bài viết sau sẽ giới thiệu về cách tiếp cận kế toán thực tế đối với
TSDS nhằm mục tiêu xem xét liệu có những hạn chế pháp lý, văn hoá hay xã hội về việc xử
lý TSDS hay không, việc xử lý kế toán TSDS trên báo cáo kết quả hoạt động như thế nào và
nghiên cứu ảnh hưởng của nó đến độ tin cậy của thông tin được trình bày trong báo cáo tài
chính.
10 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 25/05/2022 | Lượt xem: 419 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Nghiên cứu phương pháp tiếp cận kế toán thực tế đối với tài sản di sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p, các
tác phẩm nghệ thuật khác, lưu trữ quốc gia, các di tích khảo cổ, di tích, di tích, di tích, di tích
và pho tượng) cần được phân biệt với các tài sản khác của cộng đồng (như vườn quốc gia, và
hệ thống đường sắt). Tài sản di sản không thể thay thế hoặc bán do sự tồn tại của các hạn chế
Phương pháp tiếp cận kế toán thực tế đối với TSDS
TS không hạn chế
Phương pháp kết hợp tài sản-nợ
TS hạn chế
Phương pháp không kết
hợp tài sản-nợ
Ghi trên
Báo cáo
tình
hình tài
chính
Doanh thu,
chi phí
Báo cáo kết
quả hoạt động
TSDS có
thời hạn
TSDS vô
thời hạn
Suy giảm
giá trị
Khấu hao
Không
đưa
TSDS
vào Báo
cáo tình
hình tài
chính
Doanh thu,
chi phí
Tạo một Quỹ Ủy thác/ Đại lý.
Số dư của quỹ ủy thác sẽ được
báo cáo như là một khoản nợ
hoặc một tài sản trong bảng
báo cáo tình tình tài chính
Nợ phải trả
(thâm hụt).
Phản ánh giá
trị ròng như
tài sản khác
Tài sản (dư
quỹ). Phản
ánh giá trị
ròng của
TSDS
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
547
pháp lý, xã hội hoặc văn hoá. Trên thực tế, cần xem tài sản di sản như một loại tài sản riêng
biệt chứ không phải là một loại tài sản, nhà máy và thiết bị riêng biệt. Tài sản di sản phải là
sản phẩm của nền văn minh của đất nước và phải được thực hiện trên đất của đất nước và tồn
tại hơn 100 năm. Chúng phải có giá trị về khảo cổ học hoặc nghệ thuật hoặc có tầm quan
trọng lịch sử và chúng phải được sản xuất và trồng trên đất của đất nước. Ngoài ra, có thể lập
luận rằng hầu hết tài sản đã tồn tại trong hơn 100 năm, chi phí của chúng đã bị khấu hao. Do
đó, khi các tài sản này chuyển vào tài sản di sản, không có giá trị sổ sách vì giá trị của chúng
đã bị khấu hao trong suốt 100 năm qua. Hơn nữa, hầu hết các nhà lập chuẩn kế toán (như
IFAC, 2006, ASB, 2009 và IPSAS 17) đã thảo luận một số đặc điểm cụ thể, có thể nâng cao
lập luận nói trên khi xem tài sản di sản như là một loại tài sản riêng biệt hơn là một loại tài
sản, nhà máy và thiết bị riêng biệt vì:
• Chúng thường không thể thay thế được và giá trị của chúng có thể tăng theo thời
gian ngay cả khi tình trạng thể chất của chúng xấu đi;
• Chúng hiếm khi được giữ bởi khả năng tạo ra dòng tiền thu được hoặc doanh số bán
hàng và có thể có những trở ngại pháp lý hoặc xã hội để sử dụng chúng cho các mục đích đó;
• Có thể khó ước tính tuổi thọ hữu ích của chúng, trong một số trường hợp có thể là
vài trăm năm và chúng có thể phải chịu chi phí cao để duy trì chúng;
• Chúng thường được mô tả là không thể chuyển nhượng, nghĩa là đơn vị không thể
loại bỏ chúng nếu không có sự đồng ý từ bên ngoài.
Thứ ba, cần xem xét việc tính giá TSDS và hạch toán như một TS cố định. Theo
Chuẩn mực kế toán Anh (ASB, 2006), giá ghi sổ năm trước được xác định, dựa vào thu nhập
và chi khi TSDS phát sinh. Trong đó, thu nhập là từ các khoản thương mại hoá, xã hội hoá và
các khoản tài trợ, chi phí là giá mua (hay giá tương đương trên thị trường hoặc giá do đấu giá)
và các chi phí bảo trì sửa chữa di sản. Chêch lệch thu chi chính là giá trị được ghi nhận TSDS
được (mất) của năm tài chính. Trong quá trình giao dịch TSDS xác định các khoản tăng từ thu
do thanh lý TSDS, còn khoản chi chính là số tiền bỏ ra có tải sản. Ghi nhận giá trị TSDS thay
đổi bằng giá trị TSDS của năm tài chính cộng với khoản thu trừ đi khoản chi của giao dịch
TSDS đó. Ví dụ, tổ chức A có TSDS 1.600 USD (mua, được tài trợ theo giá trị tương đương
trên thị trường hoặc qua đấu giá), thu từ thanh lý TSDS 700 USD. Các khoản thu thương mại
hoá (thu từ hoạt động du lịch) 7.000 USD, khoản thu xã hội hoá 150 USD, khoản tài trợ bảo
trì TSDS 5.000 USD. Các khoản chi phí quản lý TSDS 2.200 USD, cho phí bảo trì sửa chữa
300 USD. Vậy giá trị TSDS thay đổi được ghi sổ là 8.850 USD được tính như bảng 3.
Bảng 3: Bảng xác định giá ghi sổ TS di sản
Chỉ tiêu Số tiền (USD)
1. Thu nhập của TS di sản
+ Thu từ thương mại hóa (thu từ hoạt động du lịch)
+ Tài trợ để bảo trì TS di sản
+ Xã hội hóa
12.150
7.000
5.000
150
2. Chi phí của TS di sản
+ Chi phí quản lý
+ Chi phí bảo dưỡng phục hồi sửa chữa
(2.500)
(2.200)
(300)
3. Chênh lệch thu chi 9.650
4. Ghi nhận thay đổi TS di sản
+ Ghi nhận giá trị TS di sản được (mất) của năm TC
+ Giao dịch TS di sản
- Giá trị của TS di sản (qua mua, đấu giá)
- Thanh lý TS di sản
800
(1.500)
700
5. Sự thay đổi trong việc ghi nhận TS di sản 8.850
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
548
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
4. KẾT LUẬN
Những thay đổi gần đây về các yêu cầu kế toán đối với tài sản di sản đã yêu cầu việc
đo lường giá trị kinh tế của chúng và đưa chúng vào các báo cáo và báo cáo tài chính hàng
năm. Mặc dù việc bán tài sản di sản của các cơ quan chức năng địa phương đã trở nên phổ
biến trong những năm thay đổi kế toán đối với các tài sản di sản, nhưng thật khó để biết được
điều gì đã thúc đẩy doanh số bán hàng. Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng việc xem xét nhiều
hơn về cách di sản văn hoá ngoài các giá trị tài chính (thị trường) là rất quan trọng. Do đó, cần
phải xây dựng một phương pháp tiếp cận kế toán mới tập trung vào việc xử lý kế toán thống
nhất và minh bạch đối với các tài sản di sản để xem xét có hạn chế pháp lý, văn hoá và xã hội
đối với việc di chuyển tài sản di sản hay không và để tránh sự phóng đại của giá trị ròng và sự
méo mó của báo cáo kết quả hoạt động. Cách tiếp cận này được được làm rõ trong bài viết,
được gọi là phương pháp kế toán thực tế đối với tài sản di sản dựa trên cơ sở dồn tích.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AASB (1992), Definition and Recognition of Elements of Financial Statements, SAC 4,
AASB, Melbourne.
2. AASB (1996a), Financial Reporting by Local Governments, AAS 27, AASB, Melbourne.
AASB (1996b), Financial Reporting by Government Departments, AAS 29, AASB, Melbourne.
3. Accounting Standard Board (ASB), (2006), "Heritage assets can accounting do
better"? Discussion paper, Accounting Standards Board, London, pp.89, January.
4. Barker, P., (2006), “Heritage Assets: can accounting do better?” Accounting Irland, August
2006, Vol.38 No.4, pp, 48-50.
5. Barton, A. (1999a), “Public and Private Sector Accounting – the Non-identical
twins”. Australian Accounting Review, 9 (2), 22-31.
6. Barton, A.D. (2000), “Accounting for public heritage facilities – assets or liabilities of the
government?”, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 13 No. 2, pp. 219-35.
7. Barton, A.D. (2005), “The conceptual arguments concerning accounting for public heritage
assets: a note”, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 18 No. 3, 2005, pp. 434-440.
8. Carnegie, G.D. and Wolnizer, P.W. (1995), “The financial value of cultural, heritage and
scientific collections: an accounting fiction”, Australian Accounting Review, Vol.5 No. 1, pp. 31-47.
9. Carnegie, C.D. and Wolnizer, P.W. (1996), “Enabling accountability in museums”,
Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 9 No. 5.
10. FASAB (2005), “Heritage assets and Stewardshio land”, Statement of Federal Financial
Accounting Standards 29, Federal Accounting Stabdards Advisory Board, Washington, DC.
11. FRS 3 (2002), Accounting for Property, Plant and Equipment, ICANZ, Wellington.
12. Hassan A. G. Ouda (2014) A Practical Accounting Approach for Heritage Assets under
Accrual Accounting: With Special Focus on Egypt, German University in Cairo (GUC)
13. Hood, C. (1991),“A Public Management for Ail Seasons?”, Public Administration (1991)
pp. 3-19.
14. Hood, C. (1995), “The „New Public Management‟ in the 1980‟s: variations on a
theme”, Accounting, Organizations and Society, Vol. 20, No. 2/3, pp. 93-109.
15. Hooper, K.C. and Kearins, K.N. (2005), “Knowing the price of everything and the value of
nothing: Accounting for heritage assets”, Accounting, Auditing and Accountability Journal, 62 (4),
181-184.
16. IFAC-IPSASB, (2006), “Accounting for heritage assets under the accrual accounting basis
of accounting”, Consultation paper, February, 2006.
17. Mautz, R.K. (1988), “Editorial: monuments, mistakes and opportunities”, Accounting
Horizons, Vol. 2 No. 2, pp. 123-8.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
549
18. Micallef, F. and Peirson, G. (1997), “Financial reproting of cultural, heritage, scientific
and community collections”, Australian Accounting Review, 7 (13), 31-7.
19. Ouda, H. (2005) Transition to Accrual Accounting in the Public Sector of Developed and
Developing Countries: Problems and Requirements, With special focus on the Netherlands and Egypt,
p.405, Universal Press, Veenendaal, the Netherlands.
20. Pallot, J. (1990), “The nature of public sector assets: a response to Mautz”, Accounting
Horizons, Vol. 4 No. 2, pp. 79-85.
21. Pallot, J. (1992), “Elements of a theoretical framework for public sector
accounting”, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 5 No. 1, pp. 38-59.
22. Rowles, T. (1991), “Infrastructure and heritage asset accounting”, Australian Accountant,
61(6), 69-74.
23. Rowles, T. (1992), “Financial reporting on infrastructure and heritage assets by public
sector entities”, AARf Discussion paper 17, Australian accounting research foundation, Melbourne.
24. Stanton, P.J. and Stanton, P.A. (1997), “Governmental accounting for heritage assets:
economic, social implications”, International Journal of Social Economics, Vol. 24, No. 7, pp. 988-
1006.
25. Strőm, S. (1997), “Accounting for assets in public sector – Ifs and Hows, unpublished
paper, Stockholm, Sweden, April 1997.
26. Wild, S. (2013), “Accounting for Heritage, Cultural and community Assets- An
Alternative Metrics from a New Zealand Maori education Institution”, Australasian Accounting
Business and Finance Journal (AABFJ). 7(1), 2013, 3-22.
STUDYING THE APPROPRIATION METHODOLOGY OF ACTUAL
ACCOUNTING FOR HERITAGE ASSETS
ABSTRACT
Heritage asset is a special property of historical, artistic, technological, geographic and
environmental characteristics. It is a valuable asset with hundreds of years. It is difficult to
determine the value, many heritage assets are priceless. However, heritage assets are
particularly significant in the development of the non-smoke industry (tourism). The
accounting of heritage assets will change the mindset in managing and preserving heritage
assets, bring benefit the country or the organization that owns them. In recent years, there
have been many studies to include these cultural assets in annual financial reports, but the
measurement of the value of heritage assets is very difficult. Currently, the current accounting
approach to heritage assets does not meet the need to provide useful information to
stakeholders. The following article will give introductions the practical accounting approach
to heritage assets that seeks to determine whether there are legal, cultural or social constraints
on the treatment of heritage asset, how does the estate accounting treatment work on the
performance report and how does it affect the reliability of the information presented in the
financial statements.
Keywords: heritage assets, practical accounting approach, financial reports,
useful information
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_phuong_phap_tiep_can_ke_toan_thuc_te_doi_voi_tai.pdf