Các nghiên cứu trước cho thấy IFRS 9 mang lại hiệu quả lớn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như ghi nhận tổn thất rủi ro tín dụng sớm hơn với mức ghi nhận dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn; ước tính tổn thất tín dụng kịp thời và đầy đủ, ổn định tính chu kỳ, tăng tính nhất quán, minh bạch của chất lượng thông tin tài chính, Bên cạnh đó một loạt các khăn khi các quốc gia áp dụng IFRS 9 về kế toán giảm giá trị các khoản cho vay và phải thu có thể kể đến như tăng áp lực về khoản DPRRTD, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của NHTM và lợi ích của các cổ đông hay chi phí để vận hành mô hình ECL của IFRS 9 cao hơn do cần đầu tư vào phát triển chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và quá trình thu thập dữ liệu, Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trên được đưa ra dựa trên các nghiên cứu, khảo sát của các tác giả tại nhiều quốc gia đã triển khai áp dụng IFRS 9, phần lớn là các nước phát triển với điều kiện kinh tế khác biệt lớn so với Việt Nam. Nghiên cứu này kế thừa các nghiên cứu trước, sử dụng phương pháp điều tra qua bảng hỏi để xác nhận lại khả năng, khó khăn và thuận lợi trong việc áp dụng mô hình lỗ dự kiến của IFRS9 trong điều kiện của các NHTM Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu chính có thể thấy là phần lớn các chủ thể tham gia khảo sát cho rằng mặc dù các NHTM Việt Nam đã tuân thủ các quy định trong của NHNN nhưng vẫn tồn tại hiện tượng giấu lỗ qua dự phòng; do đó việc áp dụng IFRS 9 là cần thiết nhưng không nên áp dụng trực tiếp chuẩn mực này mà cần có sự điều chỉnh cho phù hợp. Những khó khăn chính khi áp dụng IFRS là sự lo ngại số liệu nợ xấu tăng cao khi áp dụng IFRS 9 sẽ gây hiệu ứng xấu lan truyền trong nền kinh tế; chi phí xây dựng chuẩn mực mới theo IFRS 9 cao, thông tin thị trường thiếu minh bạch, hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chưa hoàn thiện, rào cản về ngôn ngữ. Yếu tố con người và công nghệ không phải là những nhân tốt gây trở ngại lớn
11 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 23/05/2022 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Nghiên cứu khả năng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế mới về công cụ tài chính (IFRS 9) trong kế toán dự phòng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lựa chọn
Phản hồi
đồng ý
(lựa chọn
mức 4 và
5)
%
Phản hồi
không
đồng ý
(lựa chọn
mức 1 và
2)
%
Không
đưa ra ý
kiến
(lựa
chọn
mức 3)
VN đã có những quy định riêng về trích lập
DPRRTD, phù hợp với điều kiện KTXH
15
28.8% 6 11.5% 31
Hạn chế về ngoại ngữ 37 71.2% 6 11.5% 9
Trình độ nguồn nhân lực chưa đáp ứng được
yêu cầu
21 40.4% 4 7.7% 27
Thông tin thị trường thiếu minh bạch, không
đủ tin cậy để đánh giá khả năng trả nợ của
KH
40 76.9% 8 15.4% 4
Tâm lý thận trọng, ngại rủi ro 20 38.5% 5 9.6% 27
Lãi suất thị trường nhiều biến động, gây khó
khăn cho việc ước tính dòng tiền chiết khấu
31 59.6% 9 17.3% 12
Hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chưa
hoàn thiện, hoạt động chưa hiệu quả
40 76.9% 6 11.5% 6
Nhà nước lo ngại hiệu ứng xấu lan truyền
trong nền kinh tế
41 78.8% 6 11.5% 5
Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
72
Cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin chưa đáp
ứng
15 28.8% 24 46.2% 13
Chi phí xây dựng chuẩn mực mới theo IFRS
9 lớn
40 76.9% 7 13.5% 5
(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Cũng theo kết quả khảo sát trên, chỉ có 28,8% phản hồi đồng ý với việc cơ sở hạ tầng, công nghệ thông
tin chưa đáp ứng được yêu cầu là trở ngại khiến IFRS 9 chưa thể áp dụng ở Việt Nam và có đến 46,2% không
đồng tình với quan điểm này. Kết quả này phản ánh đúng thực tế hiện nay bởi nhiều NHTM đã chủ động trong
việc cập nhật và triển khai các phần mềm quản lý tập trung hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế cũng như sẵn sàng
đầu tư cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng phục vụ và hoạt động hiệu quả. Bên cạnh
đó, những lo ngại về trình độ nguồn nhân lực cũng như tâm lý thận trọng, ngại rủi ro của người Việt Nam cũng
được nhận định không phải là khó khăn lớn trong việc triển khai áp dụng IFRS 9. Bởi vì chỉ cần có hướng dẫn
đầy đủ, thông tin rõ ràng, với bản tính chịu khó học hỏi, chăm chỉ lao động, nguồn nhân lực của Việt Nam
hoàn toàn có thể tiếp cận và thực hiện được các quy định theo IFRS 9.
3.3. Kết quả khảo sát về sự cần thiết và hiệu quả khi áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại nhưng hầu hết phản hồi từ cuộc khảo sát đều nhất trí rằng việc
áp dụng IFRS 9 trong trích lập DPRR TD tại các NHTM Việt Nam là cần thiết và đánh giá khả năng áp dụng
là hoàn toàn có thể nhưng cần thời gian và lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam. Có đến
42/52 phản hồi (chiếm 80,7%) cho rằng cần thiết áp dụng IFRS 9 trong kế toán giảm giá trị khoản cho vay và
phải thu tại các NHTM Việt Nam vì các hiệu quả mà IFRS 9 mang lại. Đó là:
- IFRS 9 giúp đánh giá đúng mức độ RRTD trong hoạt động của các TCTD ở Việt Nam
- IFRS 9 tăng tính minh bạch, tin cậy của thông tin tài chính
- IFRS 9 tăng khả năng so sánh BCTC của NHTM Việt Nam và quốc tế, tăng khả năng thu hút đầu tư
nước ngoài
Bảng 6. Kết quả khảo sát hiệu quả khi áp dụng IFRS 9 tại các TCTD Việt Nam
Lựa chọn Phản hồi đồng ý %
IFRS 9 giúp đánh giá đúng mức độ RRTD trong hoạt động NHTM ở Việt Nam 33 63.5%
IFRS 9 giúp thông tin tài chính của các NHTM minh bạch, đáng tin cậy hơn 27 51.9%
IFRS 9 làm tăng khả năng so sánh của BCTC của NHTM Việt Nam và quốc tế,
tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài
21 40.4%
(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Với 10/52 phiếu trả lời cho quan điểm không cần thiết phải áp dụng IFRS 9 trong trích lập DPRRTD tại
các NHTM Việt Nam, các lý do được đưa ra đó là:
Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
73
Bảng 7. Kết quả khảo sát lý do không cần thiết áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam
Lựa chọn Phản hồi đồng ý %
Việt Nam có quy định riêng về DPRR TD phù hợp với điều kiện KTXH 7 13.5%
Phương pháp xác định giảm giá trị khoản cho vay và phải thu theo IFRS 9
quá phức tạp
7 13.5%
Chi phí để áp dung IFRS 9 tại Việt Nam lớn hơn lợi ích mà nó mang lại 6 11.5%
Tính xét đoán trong IFRS 9 mang tính chủ quan dẫn đến thông tin đánh giá
không đồng nhất giữa các NHTM
8 15.4%
(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Trong nội dung câu hỏi về việc cần thiết áp dụng IFRS 9, tác giả có đưa ra một số phương án áp dụng
IFRS 9 và nhận được nhiều quan điểm từ những người tham gia khảo sát. Hầu hết các ý kiến đều cho rằng
không nên áp dụng trực tiếp toàn bộ IFRS 9 mà phải xây dựng chuẩn mực riêng về công cụ tài chính (bao gồm
nội dung DPRR TD) phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam.
Bảng 8. Kết quả khảo sát phương án áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam
Lựa chọn Phản hồi đồng ý %
Áp dụng trực tiếp IFRS 9 về kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải thu 4 8%
Xây dựng những quy định riêng về kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải
thu trên cơ sở IFRS 9, phù hợp với điều kiện KTXH tại Việt Nam
37 71%
(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Các biện pháp được đưa ra để thúc đẩy quá trình áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam tập trung vào việc cải
thiện chất lượng nguồn nhân lực, hoàn thiện hệ thống czung cấp thông tin, thu thập dữ liệu về khách hàng và
xây dựng khuôn khổ kế toán cho DPRR TD.
Như vậy, quá trình khảo sát ý kiến về thực trạng trích lập DPRR TD tại các TCTD tại Việt Nam và khả
năng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS 9 về kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải thu tại các
TCTD tại Việt Nam đã đưa ra một số kết luận sau:
- Thứ nhất, hiện nay các TCTD đều đang tuân thủ quy định của NHNN Việt Nam về trích lập DPRRTD
theo TT 02/1013/TT-NHNN. Tuy nhiên con số trích lập DPRRTD trên BCTC được đánh giá chưa phản ánh
chính xác mức độ rủi ro tín dụng đối với các NHTM, vẫn tồn tại tình trạng che giấu rủi ro, làm đẹp BCTC của
các NHTM Việt Nam.
- Thứ hai, áp dụng kế toán giảm giá trị các khoản cho vay và phải thu theo IFRS 9 được cho là cần thiết
trong quá trình hội nhập quốc tế của các NHTM Việt Nam. Bời IFRS 9 giúp phản ánh chính xác chất lượng
tín dụng, có xét đến thông tin quá khứ, tình hình hiện tại và dự báo tương lai của từng đối tượng khách hàng.
Tuy nhiên chúng ta cần có sự chọn lọc và lộ trình áp dụng để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt
Nam.
- Thứ ba, quá trình áp dụng IFRS 9 tại các TCTD ở Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu liên
quan đến chất lượng nguồn nhân lực và thông tin thị trường. Các giải pháp được đưa ra để thúc đẩy quá trình
áp dụng IFRS 9 cần được tiến hành đồng bộ và có sự tham gia của nhiều bên liên quan như chính phủ, ngân
hàng nhà nước, các TCTD.
Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020
74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Beatty, A., & Liao, S. (2011). Do delays in expected loss recognition affect banks' willingness to lend?
Journal of Accounting and Economics, 52(1), 1-20. doi:
[2] Bushman, R. M., & Williams, C. D. (2012). Accounting discretion, loan loss provisioning, and discipline
of banks’ risk-taking. Journal of Accounting and Economics, 54(1), 1-18.
[3] Cohen, B. H., & Edwards, G. (2017). The new era of expected credit loss provisioning. BIS Quarterly
Review, March.
[4] Csaba, K. (2017). Modelling of provision under new International Financial and Reporting Standard
(IFRS 9). Paper presented at the ZZ. Paprika et al., 31st European Conference on Modelling and
Simulation, ECMS, Hungary.
[5] Ernst & Young (2018), Applying IFRS: Impairment of financial instruments under IFRS 9, available
@ https://www.ey.com/Publication/vwLUAssets/ey-Apply-IFRS-9-FI-Impairment-April2018/$FILE/ey-
Apply-IFRS-9-FI-Impairment-April2018.pdf
[6] Frykström, N., & Jieying, L. (2018). IFRS 9–the new accounting standard for credit loss recognition.
Economic Commentaries(3).
[7] Gaston, E., & Song, M. I. (2014). Supervisory roles in loan loss provisioning in countries implementing
IFRS: International Monetary Fund.
[8] Gornjak, M. (2017). Comparison of IAS 39 and IFRS 9: The Analysis of Replacement. International
Journal of Management, Knowledge and Learning(1), 115-130.
[9] IASB. (2014). Project Summary - IFRS 9 Financial Instruments (pp. 32): IASB Foundation.
[10] IASB, IAS 39 – Financial instruments – Recognition and measurement,
[11] IASB, IFRS 9 – Financial Instruments
[12] Klefvenberg, L., & Nordlander, V. (2015). IFRS 9 replacing IAS 39: A study about how the
implementation of the Expected Credit Loss Model in IFRS 9 i beleived to impact comparability in
accounting.
[13] Laeven, L., & Majnoni, G. (2003). Loan loss provisioning and economic slowdowns: too much, too late?
Journal of Financial Intermediation, 12(2), 178-197. doi:
9573(03)00016-0
[14] Nguyen, N. T. T. (2014). Perceptions of accounting professionals towards the prospect of implementing
fair value under IASB in Vietnamese accounting system: A quantitative study of accounting professionals
in Vietnam.
[15] Novotny-Farkas, Z. (2015). The significance of IFRS 9 for financial stability and supervisory rules.
European Parliament, Directorate General for Internal Policies Policy Department A: Economic and
Scientific Policy, Brussels, European Union.
[16] Phan, D., Mascitelli, B., & Barut, M. (2014). Perceptions towards international financial reporting
standards (IFRS): The case of Vietnam. Global Review of Accounting and Finance Journal, 5(1), 132-
152.
[17] PwC (2017), IFRS 9-Financial Instruments: Understanding the basics, available at
https://www.pwc.com/gx/en/audit-services/ifrs/publications/ifrs-9/ifrs-9-understanding-the-basics.pdf
[18] Sanchidrián, J. P., & García, C. J. R. (2018). Unveiling the expected loss model in IFRS 9 and Circular
4/2017. FINANCIAL STABILITY REVIEW(36), 143-160.
[19] Sultanoğlu, B. (2018). Expected credit loss model by IFRS 9 and its possible early impacts on European
and Turkish banking sector. Muhasebe Bilim Dünyası Dergisi, 20(3), 476-506.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_kha_nang_ap_dung_chuan_muc_ke_toan_quoc_te_moi_ve.pdf