Hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ trong những thập kỷ gần đây và thực sự
trở thành một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hiện đại. Đối với từng quốc gia, đầu tư ra nước
ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, sự vận động của nó có tác dụng to lớn và ảnh hưởng trực tiếp
đến tốc độ phát triển và tính bền vững của kinh tế toàn cầu. Với những lợi ích to lớn đó, các doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập cũng đã mạnh dạn tham gia vào thị trường này từ năm
1989 và đến nay đã đạt được những thành công bước đầu, tuy nhiên vẫn còn khá nhiều bất cập.
Trong khi Việt Nam vẫn rất cần vốn từ trong nước để phát huy nội lực thì vẫn có tới gần 70% vốn
đầu tư ra nước ngoài thuộc các tập đoàn của Nhà nước với gần 69% vốn đầu tư dưới hình thức
100% vốn Việt Nam và đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm tới 78,74% tổng vốn đầu tư ra nước
ngoài Để thấy rõ hơn về thực trạng hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam từ 1989 đến
nay, tác giả nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo ngành; cơ cấu đầu tư theo quốc gia, vùng lãnh thổ; cơ cấu
đầu tư theo tỉnh, thành phố của nước đầu tư và cuối cùng là nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo hình thức,
chủ thể đầu tư từ đó chỉ ra những cơ cấu đầu tư cần điều chỉnh trong thời gian tới căn cứ vào điều kiện
kiện tại của Việt Nam cũng như từ những kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới.
8 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 10/05/2022 | Lượt xem: 360 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Nghiên cứu cơ cấu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
môi trường kinh
doanh trong nước, môi trường kinh doanh
nước nhận đầu tư, môi trường kinh doanh
quốc tế nên hoạt động này tương đối phức
tạp, thực ra khi các doanh nghiệp tham gia
hoạt động đầu tư ra nước ngoài có thể lựa
chọn các hình thức liên doanh liên kết, đầu tư
trực tiếp 100% vốn hoặc bằng cách mua lại và
sáp nhập. Tuy nhiên, trong thời gian qua các
nhà đầu tư Việt Nam chủ yếu lựa chọn hình
thức liên doanh và đầu tư trực tiếp 100% vốn.
Trong những năm đầu (năm 2001) liên doanh
chiếm 46,2% số dự án, đầu tư trực tiếp 100%
vốn chiếm 53,8%, đến những năm gần đây
(năm 2011) liên doanh chiếm 31,2% số dự án
còn hình thức đầu tư 100% vốn Việt Nam
chiếm tới 68,8%. Như vậy, hình thức đầu tư
trực tiếp luôn chiếm tỷ lệ cao và có xu hướng
tăng lên do hình thức này cho phép các doanh
nghiệp Việt Nam chủ động hơn khi tiến hành
đầu tư và không bị ràng buộc vào các đối tác
ở nước chủ nhà ngoài nước, tuy nhiên với các
dự án có nhiều rủi ro, nhu cầu vốn lớn như ở
lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, khai
thác khoáng sản, cũng vẫn ưu tiên hình
thức liên doanh để cùng chia sẻ rủi ro nếu có.
Bảng 5: 10 tỉnh, thành phố có số dự án đầu tư ra nước ngoài lớn nhất tính đến năm 2013
TT Quốc gia
Số dự
án Cơ cấu (%)
Vốn đầu tư của dự
án Cơ cấu (%)
1 Hà Nội 236 31.81 20,395,024,211 60.91
2 TP Hồ Chí Minh 215 28.98 2,128,793,446 6.36
3 Nghệ An 29 3.91 293,721,156 0.88
4 Bình Dương 21 2.83 188,572,697 0.56
5 Gia Lai 20 2.70 920,266,786 2.75
6 Đồng Nai 15 2.02 1,232,878,197 3.68
7 Hải Phòng 13 1.75 20,535,818 0.06
8 Đà Nẵng 9 1.21 853,244,283 2.55
9 Kon Tum 9 1.21 80,448,428 0.24
10 An Giang 8 1.08 4,263,589 0.01
Tổng 10 tỉnh, thành phố 575 77.49 26,117,748,611 78.00
Tổng 48 tỉnh, thành phố 742 100.00 33,485,026,751 100.00
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch Đầu tư)
Nguyễn Thị Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 87 - 94
93
Về chủ thể đầu tư ra nước ngoài của việt Nam
cũng khá đa dạng, như các tập đoàn, doanh
nghiệp tư nhân, công ty liên doanh, nhưng
theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
vốn đầu tư của 5 tập đoàn lớn: Tập đoàn Dầu
khí quốc gia Việt Nam; Tập đoàn Sông Đà,
Tập đoàn Viễn thông quân đội, Tập đoàn than
& Khoáng sản Việt Nam; Tập đoàn Công
nghiệp Cao su Việt Nam đã chiếm tới 69,9%
tổng số vốn đầu tư.
Theo tác giả nghiên cứu cho thấy, trong giai
đoạn đầu hoạt động đầu tư ra nước ngoài chủ
yếu được thực hiện bởi các công ty, tập đoàn,
doanh nghiệp nhà nước để nhà nước phát huy
được lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả
đầu tư, đảm bảo lợi ích cho các quốc gia là
phù hợp. Song, đến nay, sau gần 25 năm tham
gia trên trường quốc tế, hoạt động đầu tư ra
nước ngoài của Việt Nam không còn non trẻ
thì nhà nước nên tạo cơ hội để đẩy mạnh các
thành phần kinh tế sở hữu vốn ngoài nhà
nước đầu tư ra nước ngoài vì thực tế cho thấy,
các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp
tư nhân thường có hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh cao hơn. Do vậy, cơ cấu đầu
tư ra nước ngoài theo chủ thể hiện nay ở nước
ta chưa thật hợp lý mà cần tăng tỷ lệ vốn đầu
tư tư nhân tham gia vào hoạt động này trong
thời gian tới.
KẾT LUẬN
Qua phân tích cơ cấu đầu tư của hoạt động
đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam những
năm qua, có thể thấy làn sóng đầu tư ra nước
ngoài đã và đang gia tăng mạnh mẽ. Làn sóng
này đã mở ra một mặt trận kinh tế thứ hai
nhằm khai thác thị trường và lợi thế cạnh
tranh của các nước khác để bổ sung, hỗ trợ sự
phát triển kinh tế trong nước và nâng cao vị
thế kinh tế của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của
Việt Nam vẫn còn gặp không ít những khó
khăn thách thức, cơ cấu đầu tư đã đến lúc cần
phải chuyển hướng. Cơ cấu đầu tư trong giai
đoạn đầu được đánh giá là tương đối phù hợp
với quy luật, ban đầu khi các doanh nghiệp
trong nước chưa đủ mạnh thì nhà nước
khuyến khích các tập đoàn, tổng công ty,
doanh nghiệp nhà nước đầu tư vốn sang các
nước láng giềng, các nước đang phát triển với
lĩnh vực chủ yếu là công nghiệp, khai khoáng,
viễn thông, những lĩnh vực kinh doanh chủ
yếu của các công ty, tập đoàn lớn mạnh của
đất nước với hình thức đầu tư chủ yếu là liên
doanh. Đến nay, khi Việt Nam bắt đầu có
được vị thế trên trường quốc tế, tuy còn
khiêm tốn nhưng các doanh nghiệp Việt Nam
đã tạo được chỗ đứng trên thương trường thì
Việt Nam cần duy trì sự hoạt động của các dự
án đã đầu tư và khuyến khích dần sang các
lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực phân phối sản
phẩm sang thị trường các nước Châu Phi,
châu Úc và dần tiếp cận thị trường các nước
kinh tế phát triển với chủ thể đầu tư đa dạng
hơn và chuyển dần sang cơ cấu vốn đầu tư
của các doanh nghiệp tư nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ kế hoạch & Đầu tư, Cục Đầu tư nước ngoài,
Báo cáo tình hình đầu tư ra nước ngoài Quý I
2013, 2012, 2011, Hà Nội.
2. Bộ kế hoạch & Đầu tư, Cục Đầu tư nước ngoài
(2013), Tình hình đầu tư của Việt Nam ra nước
ngoài lũy kế đến QI năm 2013, Hà Nội
3. Đỗ Đức Bình (2012), Giáo trình Đầu tư quốc
tế, trường Đại học KTQD, Nxb Khoa học kỹ thuật,
Hà Nội.
4. Đinh Trọng Thịnh, 2006, Thúc đẩy doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài,
Nxb Tài chính
5. Nguyễn Hữu Huy Nhựt, 2010, Chiến lược đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2009), Kinh nghiệm
đầu tư ra nước ngoài của các nước đông Nam Á và
bài học cho Việt Nam, Tạp chí Phát triển kinh tế,
(220), tr 33-38.
Nguyễn Thị Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 121(07): 87 - 94
94
SUMMARY
STRUCTURE REARSEARCH OUTWARD
FOREIGN DIRECT INVESTMENT OF VIET NAM
Nguyen Thi Nhung*
College of Economic & Business Administration - TNU
International Investment activity is growing strongly in recent decades and actually become a
fundamental characteristic of modern economies. For each country, outward foreign investment is
extremely important sence, the movement of its works great and direct impact to the growth and
sustainability of the global economy. With the enormous benefits that enterprises in Viet Nam
intergration process has also strongly involved in this market since 1989 and has achieved initial
success, however, is still pretty much and counter. While Viet Nam is still in need of capital from
the country to promote internal strength is still almost 70% of outward foreign investment capital
of state corporations with nearly 69% of outward foreign investment capital in the form of a 100%
Viet Nam capital and invested in industry accounted for 78.74% of total outward foreign
investmentTo find out more about the current status of outward foreign direct investment in Viet
Nam from 1989 until the present, the author studies the structure investment by country of territory; by
province and finally investment research structure in the form of investment, the investor can then only
the investment structure should be adjusted in the future based on conditions in the event of Viet Nam
as well as from the experiences of other countries in the world.
Keywords: investment, outward foreign direct investment, the investment structure
Ngày nhận bài:31/12/2013; Ngày phản biện:10/1/2014; Ngày duyệt đăng: 25/6/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Yến – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN
* Tel: 0984 238716, Email: Nhung76qtkd@yahoo.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_co_cau_dau_tu_truc_tiep_ra_nuoc_ngoai_cua_viet_na.pdf