Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính

Bằng việc phân tích các nội dung điển hình liên quan đến việc hình thành năm nguy cơ đe dọa

tính độc lập của kiểm toán viên (KTV) (trong nhiệm kỳ ngắn và nhiệm kỳ mở rộng) khi đưa ra kết luận về

báo cáo tài chính (BCTC), nhóm Tác giả đã tìm thấy bằng chứng về ảnh hưởng giữa nhiệm kỳ kiểm toán

(Audit firm Tenure) mở rộng (kéo dài) và tính độc lập của KTV. Một bảng hỏi được thiết kế và gửi qua mạng

internet đến các KTV đang làm việc tại các công ty kiểm toán tại Việt Nam để thu thập thông tin và thu

về 121 phiếu trả lời hợp lệ. Phương pháp kiểm định giả thuyết về giá trị trung bình của 2 tổng thể (Paired

Samples T-test) được thực hiện nhằm so sánh các tình huống tương tự trong cả hai nhiệm kỳ kiểm toán

ngắn và dài để xem xét mối liên hệ giữa tính độc lập với nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng hay không. Kết quả

kiểm định cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa hai yếu tố này. Từ đó, nhóm Tác giả đã hình thành đề xuất

đối với KTV và cơ quan quản lý Nhà nước trong việc duy trì tính độc lập của kiểm toán viên khi kiểm toán

BCTC cho các đơn vị có lợi ích công chúng.

pdf13 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 23/05/2022 | Lượt xem: 385 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệm kỳ kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5.5 1,95 Cặp thứ sáu BC6.3 2,32 3,105 0,002 BC6.5 2,20 Nguy cơ về sự đe dọa Cặp thứ bảy ĐD7.3 2,33 4,276 0,000 ĐD7.5 2,20 Cặp thứ tám ĐD8.3 2,16 3,288 0,001 ĐD8.5 2,07 Cặp thứ chín ĐD9.3 2,54 6,290 0,000 ĐD9.5 2,29 Nguy cơ về sự quen thuộc Cặp thứ mười QT10.3 2,00 4,121 0,000 QT10.5 1,88 Cặp thứ mười một QT11.3 1,92 3,288 0,001 QT11.5 1,83 HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA202 Nguồn: Kết quả thống kê mô tả và kiểm định t (thông qua phần mềm SPSS 20 Kết quả kiểm định cho thấy, tất cả các cặp tình huống được kiểm định đều có ý nghĩa thống kê (t>1,96 và sig.<0,05) (Bảng 2). Như vậy, giả thuyết “Nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng không ảnh hưởng đến 5 nguy cơ đe dọa tính độc lập của KTV khi thực hiện kiểm toán BCTC” bị bác bỏ. Từ kết quả này, có thể khẳng định rằng khi nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng thì những người tham gia khảo sát cho rằng: Tính độc lập của KTV bị ảnh hưởng nhiều hơn từ nguy cơ do tư lợi so với nhiệm kỳ kiểm toán ngắn (giá trị trung bình của tổng thể giảm từ 3,02 xuống 2,40 với tình huống TL1 và giảm từ 2,92 xuống 2,63 ở tình huống TL2) nếu: Tổng mức phí dịch vụ thu được từ khách hàng này và các đơn vị có liên quan của khách hàng trong hai năm liên tiếp chiếm hơn mức 15% tổng doanh thu của doanh nghiệp kiểm toán và Khách hàng có phí kiểm toán chưa thanh toán; Tính độc lập của KTV bị ảnh hưởng nhiều hơn từ nguy cơ tự kiểm tra so với nhiệm kỳ kiểm toán ngắn (giá trị trung bình của tổng thể giảm từ 2,67 xuống 2,42 với tình huống KT3 và giảm từ 3,00 xuống 2,75 ở tình huống KT4) nếu: Một KTV tham gia cung cấp cả dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán. Giá trị của phí phi kiểm toán bằng hoặc lớn hơn 100% phí kiểm toán và Một KTV tham gia cung cấp cả dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán. Giá trị của phí phi kiểm toán bằng hoặc lớn hơn 25% phí kiểm toán; Tính độc lập của KTV bị ảnh hưởng nhiều hơn từ nguy cơ về sự bào chữa so với nhiệm kỳ kiểm toán ngắn (giá trị trung bình của tổng thể giảm từ 2,20 xuống 1,95 với tình huống BC5 và giảm từ 2,32 xuống 2,20 ở tình huống BC6) nếu: KTV hành nghề là người bào chữa bí mật, đại diện cho khách hàng kiểm toán trong các vụ kiện hoặc khi giải quyết các tranh chấp với bên thứ ba và KTV giới thiệu người bạn thân của mình tham gia giao dịch cổ phiếu hoặc chứng khoán tài chính của một khách hàng; Tính độc lập của KTV bị ảnh hưởng nhiều hơn từ nguy cơ về sự đe dọa so với nhiệm kỳ kiểm toán ngắn (giá trị trung bình của tổng thể giảm từ 2,33 xuống 2,20 với tình huống ĐD7; giảm từ 2,16 xuống 2,07 ở tình huống ĐD8 và giảm từ 2,54 xuống 2,29 ở tình huống ĐD9) nếu: KTV bị đe dọa bởi những biện pháp của bộ máy quản lý của khách hàng mà họ đã kiểm toán; KTV bị khách hàng đe dọa khởi tố và Một khách hàng đe dọa sẽ thay thế KTV bằng một KTV khác do có sự bất đồng giữa hai bên; Tính độc lập của KTV bị ảnh hưởng nhiều hơn từ nguy cơ về sự quen thuộc so với nhiệm kỳ kiểm toán ngắn (giá trị trung bình của tổng thể giảm từ 2,00 xuống 1,88 với tình huống QT10 và giảm từ 1,92 xuống 1,83 ở tình huống QT11) nếu: KTV thực hiện hợp đồng dịch vụ có quan hệ gia đình với nhân sự cấp cao của khách hàng và KTV nhận quà biếu (có giá trị đáng kể) từ một khách hàng. Có 2/5 loại nguy cơ có kết quả kiểm định trong nghiên cứu này khác so với kết quả nghiên cứu của Chia-Ah và Karlsson (2010). Chia-Ah và Karlsson (2010) đã tìm ra bằng chứng chứng tỏ không có sự ảnh hưởng nào rõ rệt của nhiệm kỳ kiểm toán được mở rộng đến nguy cơ bị đe dọa (t = - 0,541 và sig. = 0,589) và nguy cơ từ sự quen thuộc (t = - 0,518 và sig. = 0,605). Hơn nữa, giá trị trung bình của tổng thể tăng từ 1,617 đến 1,631 với tình huống đánh giá nguy cơ bị đe dọa; giá trị HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 203 trung bình của tổng thể tăng từ 1,557 đến 1,568 với tình huống đánh giá nguy cơ từ sự quen thuộc. Mặc dù mức tăng của các giá trị trung bình không đáng kể nhưng đây là dấu hiệu thể hiện sự khác biệt so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi. 6. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ giữa nhiệm kỳ kiểm toán mở rộng đến tính độc lập của KTV thông qua kết quả kiểm định các cặp giả thuyết liên quan đến 5 mối nguy cơ không tuân thủ tính độc lập (nguy cơ do tư lợi, nguy cơ tự kiểm tra, nguy cơ về sự bào chữa, nguy cơ từ sự quen thuộc, nguy cơ bị đe dọa) khi kiểm toán BCTC của các đơn vị có lợi ích công chúng. Ngoài ra, kết quả kiểm định t một mẫu được áp dụng cho nhiệm kỳ kiểm toán dưới 3 năm và nhiệm kỳ kiểm toán từ 5 năm trở lên xác nhận rằng bất kỳ độ dài của nhiệm kỳ nào cũng có thể là nguồn gốc tạo ra mối đe dọa đến sự độc lập của KTV. Trên thực tế, đối với công ty kiểm toán, nhiệm kỳ kiểm toán kéo dài có thể giúp cho cuộc kiểm toán được tổ chức hiệu quả hơn, tuy nhiên, theo qui định trong Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán, Kiểm toán viên hành nghề không được tham gia thực hiện kiểm toán cho một đơn vị có lợi ích công chúng trong 5 năm tài chính liên tục (Bộ Tài chính, 2015). Kết hợp với kết quả nghiên cứu trên, nhóm Tác giả cho rằng tính độc lập là một khái niệm tương đối, nó phụ thuộc nhiều vào bản thân KTV khi hành nghề. Trước khi nhận nhiệm vụ kiểm toán từ cấp trên, các KTV cần phải tự phân tích sự độc lập của họ về mặt hình thức, tư tưởng và xác nhận rằng họ có đủ xứng đáng để thực hiện cuộc kiểm toán với tính chính trực và khách quan cao nhất hay không. Nếu kết quả của các phân tích khẳng định tính độc lập có thể bị suy giảm thì họ cần xem xét các biện pháp bảo vệ phù hợp hoặc xem xét lại quyết định có nên tham gia vào cuộc kiểm toán. Kết quả kiểm định cho thấy, tính độc lập bị suy giảm khi nhiệm kỳ kiểm toán kéo dài, tuy nhiên, sự suy giảm này là không đáng kể. Kết hợp kết quả nghiên cứu của chúng tôi với phát hiện của Nguyễn Anh Hiền (2017): nếu cùng một KTV thực hiện kiểm toán BCTC thì chất lượng kiểm toán sẽ tăng dần theo từng năm và đạt cao nhất ở năm thứ 5, nhóm nghiên cứu khuyến nghị cơ quan quản lý Nhà nước nên cân nhắc về nhiệm kỳ kiểm toán trong thời hạn 5 năm thay bằng thời hạn đang áp dụng hiện nay, đồng thời có hình phạt xử lý mạnh và kịp thời đối với trường hợp vi phạm về tính độc lập. Mặc dù nghiên cứu đã có được kết quả cụ thể, tuy nhiên do giới hạn về thời gian và nguồn lực nên Tác giả chưa thực hiện nghiên cứu với toàn bộ các công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Ngoài ra, kết quả khảo sát chỉ đại diện được trên 90% hiện tượng nghiên cứu; các phần tử được chọn vào mẫu kiểm toán bằng phương pháp thuận tiện dựa trên mối quan hệ của nhóm Tác giả và các đồng nghiệp. Do đó, trong tương lai, nhóm Tác giả sẽ tiếp tục phát triển nghiên cứu này và khắc phục các nhược điểm trên để kết quả nghiên cứu có ý nghĩa tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anderson, D., Sweney, D. & William, T. (2011), Essentials of Statistics for Business and Economics, 6th edition, South-Western, USA. 2. Berenson, M., Levine, D. & Krehbiel, T. (2012), Basis Business Statistics: Concepts ans HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA204 Applications, 12th edition, Prentice Hall, USA. 3. Bộ Tài chính (2015), Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, Ban hành kèm theo Thông tư số 70/2015/TT-BTC ngày 08 tháng 05 năm 2012 của Bộ Tài chính. 4. Bộ Tài chính (2019), Danh sách kiểm toán viên được chấp thuận thực hiện kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng năm 2019 (cập nhật đến ngày 15/10/2019), truy cập tại https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btc/r/lvtc/ktkt/ckdsktvhnvdnkt/ckdsktvhnvdnkt_ chitiet?dDocName=MOFUCM165018&_afrLoop=50082942076494697#!%40%40%3F_ afrLoop%3D50082942076494697%26dDocName%3DMOFUCM165018%26_adf.ctrl- state%3Deb41oeed3_50 ngày 30/10/2019. 5. Brody, R. G. & Moscove, S. A. (1998), Mandatory auditor rotation, National Public Accountant (May), 32-36. 6. Chia-Ah, E. và Karlsson, J. (2010), The impact of extended audit tenure on auditor independence, Master thesis. 7. Craswell, A. T. (1999), ‘Does the provision of non-audit services impair auditor independence’, International Journal of Auditing, vol. 3, pp. 29-40. 8. Deangelo, L. E. (1981), Auditor independence, ‘low balling’, and disclosure regulation, Journal of accounting and economics, 3, 113-127. 9. Dopuch, N., King, R. R. & Schwartz, R. (2001), An experimental investigation of retention and rotation requirements, Journal of Accounting Research, 39(1), 93-117. 10. Eilifsen, A., Messier Jr., W. F., Glover, S. M., & Prawitt, D. F. (2006), Auditing and Assurance Services, International Edition. Glasgow: McGraw Hill Education. 11. Hayes R., Dassen R., Schilder A., Wallage P. (2004), Principle of auditing: An Introduction to International Standards on Auditing, Second Edition, Prentice Hall. 12. Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976), Theory of the firm: Management behaviour, agency costs and ownership structure, Journal of Financial Economics, 3(October), 305-360. 13. Geiger, M. A., & Raghunandan, K. (2002), Auditor tenure and audit reporting failures. Auditing: A Journal of Practice and Theory, 21(1): 67-78. 14. Makadmh, A. (2006), Factors influencing the auditor’s response to the desire of the customer accounting services, Journal of Accounting and Management and Insurance. 15. Miller, T. (1992), ‘Do we need to consider the individual auditor when discussing auditor independence?’, Accounting, Auditing & Accountability Journal, Vol. 5, No. 2, p.74 16. Nguyễn Anh Hiền (2017), Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán, truy cập tại moi-quan-he-giua-luan-chuyen-kiem-toan-vien-va-chat-luong-kiem-toan-132530.html ngày 02/12/2018 17. Nguyễn Quang Quynh và Ngô Trí Tuệ (2014), Giáo trình kiểm toán tài chính, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 205 18. Nguyễn Quang Quynh và Nguyễn Thị Phương Hoa (2016), Giáo trình Lý thuyết kiểm toán, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. 19. Okolie, A. O. (2014), Accrual - Based earnings Management, Corporate Policies and Managerial Decisions of Quoted Companies in Nigeria, Research Journal of Finance and Accounting, 5 (2), 1-14. 20. Ouyang, B., Wan, H. (2013), “Does Audit Tenure Impair Auditor Independence? Evidence from Option Backdating Scandals”, International Journal of Business and Social Science, Vol 4 (14), pages 23-33. 21. Petty, R. & Cuganesan, S. (1996), Auditor rotation: Framing the debate, Australian Accountant, 66(4), 40-41. 22. Quick, R. and Ben-Rasmussen, W. (2005), ‘The impact of MAS on perceived auditor independence - some evidence from Denmark’, Accounting Forum, vol. 29, pp. 137-168. 23. Schmidt, J. J. (2012), Perceived Auditor Independence and Audit Litigation: The Role of Nonaudit Services Fees, The Accounting Review: May 2012, Vol. 87, No. 3, pp. 1033-1065. 24. Shafie, R., Hussin, W. N. W., Yusof, M. A., Hussain, M. H. M (2009), Audit Firm Tenure and Auditor Reporting Quality: Evidence in Malaysia, Vol.2, No. 2, 99-109. 25. Swanger, S.L.; Chewning, E. G. (2001), The effect of internal audit outsourcing on financial analysts’ perceptions of external auditor independence, Auditing: a Journal of Practice & Theory, Vol. 20(2): 115-129. 26. Teoh, H. Y. & Lim C. C. (1996), An empirical study of the effects of audit committees, disclosure of non-audit fees, and other issues on audit independence: Malaysian evidence, Journal of International Accounting, Auditing & Taxation, 5(2), 231-248. 27. Tepalagul, N., & Lin, L. (2015), Auditor independence and audit quality: a literature review, Journal of accounting, auditing & finance, 30(i), 101-121. 28. Trần Thị Kim Thu (2012), Điều tra xã hội học, NXB Đại học kinh tế quốc dân 29. Trần Thị Giang Tân và cộng sự (2014), Giáo trình kiểm toán, NXB Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 30. Vanstraelen, A. (2000), Impact of renewable long - term audit mandates on audit quality, The European Accounting Review, 9 (3) 31. Weiss, N. (2012), Elementary Statistics, 8th edition, Pearson Education, USA.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_anh_huong_cua_nhiem_ky_kiem_toan_den_tinh_doc_lap.pdf