Ninh Thuận là một tỉnh nghèo nhất trong vùng Đông nam bộvà cũng là tỉnh rất nghèo
nếu so với cảnước. Khoảng 3360 km
2
diện tích nơi đây bao gồm cả đồng bằng, đồi núi
và miền biển quanh năm chìm trong nắng nóng. Lượng mưa hằng năm thì rất ít nhưng
thường có mưa kèm theo bão lớn gây nên lũlụt. Chính kiểu thời tiết này đã ảnh hưởng
xấu đến khảnăng sản xuất và đời sống của các hộdân nơi này, đặc biệt là các hộsống
phụthuộc vào nông nghiệp.
Đời sống kinh tếNinh Thuận chủyếu dựa vào nông nghiệp (tỷtrọng nông, lâm và thủy
sản qua các năm thường ởmức xấp xỉ50% GDP) với hơn 70% lao động làm việc trong
khu vực này. Sản phẩm chủyếu vẫn là cây lương thực nhưlúa, bắp, đậu. Ngành nuôi tôm
ở2 huyện Ninh Hải và Ninh Phước đã có lúc khởi sắc mang lại thu nhập đáng kểsong lại
đang bước vào thời kỳkhó khăn do ô nhiễm nguồn nước, thiên tai và dịch bệnh liên
miên. Tương tự, ngành chăn nuôi cừu và dê một năm trước còn được xem nhưcứu cánh
của vùng đất này thì nay đang có dấu hiệu chững lại khiến không ít hộchăn nuôi lâm vào
cảnh lao đao do không trả được nợvay ngân hàng. Công nghiệp sản xuất và dịch vụdu
lịch là những bước tiến mới trong chủtrương của tỉnh nhưng chỉ đang ởnhững bước khởi
đầu. Khảnăng tìm kiếm một việc làm ổn định ngoài nông nghiệp vì thếcũng rất nhỏ.
7 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1180 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Nghèo đói và chính sách tác động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2006-2007
Học kỳ Thu
Các Phương Pháp Phân Tích
Nghiên cứu tình huống
Nghèo đói và chính sách tác động
Ngày phát: Thứ sáu, ngày 1 tháng 12 năm 2006
Thảo luận: 13g30 ngày 1 tháng 12 năm 2006
Ninh Thuận là một tỉnh nghèo nhất trong vùng Đông nam bộ và cũng là tỉnh rất nghèo
nếu so với cả nước. Khoảng 3360 km2 diện tích nơi đây bao gồm cả đồng bằng, đồi núi
và miền biển quanh năm chìm trong nắng nóng. Lượng mưa hằng năm thì rất ít nhưng
thường có mưa kèm theo bão lớn gây nên lũ lụt. Chính kiểu thời tiết này đã ảnh hưởng
xấu đến khả năng sản xuất và đời sống của các hộ dân nơi này, đặc biệt là các hộ sống
phụ thuộc vào nông nghiệp.
Đời sống kinh tế Ninh Thuận chủ yếu dựa vào nông nghiệp (tỷ trọng nông, lâm và thủy
sản qua các năm thường ở mức xấp xỉ 50% GDP) với hơn 70% lao động làm việc trong
khu vực này. Sản phẩm chủ yếu vẫn là cây lương thực như lúa, bắp, đậu. Ngành nuôi tôm
ở 2 huyện Ninh Hải và Ninh Phước đã có lúc khởi sắc mang lại thu nhập đáng kể song lại
đang bước vào thời kỳ khó khăn do ô nhiễm nguồn nước, thiên tai và dịch bệnh liên
miên. Tương tự, ngành chăn nuôi cừu và dê một năm trước còn được xem như cứu cánh
của vùng đất này thì nay đang có dấu hiệu chững lại khiến không ít hộ chăn nuôi lâm vào
cảnh lao đao do không trả được nợ vay ngân hàng. Công nghiệp sản xuất và dịch vụ du
lịch là những bước tiến mới trong chủ trương của tỉnh nhưng chỉ đang ở những bước khởi
đầu. Khả năng tìm kiếm một việc làm ổn định ngoài nông nghiệp vì thế cũng rất nhỏ.
Khung 1: Việc làm nông nghiệp và mức sống
Ông Bi, 42 tuổi là chủ hộ của một gia đình có 6 thành viên ở Phước Khánh,
Ninh Phước. Từ trước đến giờ gia đình ông chỉ biết làm nông, vất vả lắm mới
có đủ cái ăn chứ chưa lúc nào có dư dả để dành dụm. Năm 2001, ông trồng đậu
xanh và bắp trên mảnh ruộng của người anh ruột gần sông Quao. Vụ đầu tiên
cho năng khá nên ông phấn khởi lắm. Thế mà cuối năm đó, lũ về quét sạch tất
cả những gì ông có. Vậy là trắng tay! Ông và người con trai lớn đành phải xin
đi làm thuê, công việc bữa có bữa không nên hoàn cảnh gia đình ngày caøng
tồi tệ. Giữa năm 2004, ông Bi được ngân hàng chính sách xét cho vay 3 triệu
đồng để mua một con cừu nái. Con này đẻ được 2 con đực nên 8 tháng sau ông
bán được 800.000 ngàn. Chăn nuôi cừu đang lúc phát triển nhanh nên mang lại
cho ông nhiều hy vọng. Tuy nhiên, giá cừu đột nhiên giảm nhanh đến nay chỉ
còn 2 triệu/một con nái tốt nhưng cũng hiếm người mua. Khó khăn và nợ nần
đang chất chồng lên vai gia đình người nông dân này.
Do phụ thuộc vào các công việc trong nông nghiệp nên đất đai là thứ tài sản quý giá đối
với các hộ gia đình ở đây. Trong một nghiên cứu năm 2004, số liệu cho biết ở Ninh
Thuận có đến 42% hộ không có đất canh tác trong khi tỷ lệ chung cả nước là 19%. Trong
số này, hơn một nửa (51%) các hộ thuộc nhóm 20% chi tiêu thấp nhất là không có đất,
các nhóm hộ còn lại có tỷ lệ không có đất thấp hơn (khoảng 30%). Đáng lưu ý là các hộ
thuộc nhóm chi tiêu thấp nhất thường sử dụng đất để trồng lúa trong khi các nhóm hộ
khác còn trồng các loại cây hàng năm và cây lâu năm bên cạnh lúa. Nguyên nhân là do
khả năng đầu tư và chất lượng đất khác nhau. Và chính điều này đã tạo nên sự khác biệt
trong thu nhập từ đất đai giữa các nhóm chi tiêu:
Bảng 1: Doanh thu từ đất và diện tích đất canh tác phân theo 2 nhóm chi tiêu
Nghèo Không nghèo
Doanh thu từ đất (1.000 đồng/năm) 1206 2848
Diện tích đất canh tác (m2) 2746 5604
Nguồn: Số liệu điều tra thực tế Ninh Thuận, 2004
Người dân ở đây cho biết, một trong những khó khăn lớn nhất đối với họ là thiếu vốn làm
ăn. Ba năm trở lại đây, Ngân hàng chính sách Ninh Thuận đã hoạt động rất hiệu giúp cho
nhiều hộ được vay vốn (67%). Tuy nhiên, các hộ nghèo cho rằng mức cho vay trung bình
3 triệu đồng/hộ của Ngân hàng chính sách là quá ít để họ có thể xoay xở làm ăn. Trong
khi đó, Ngân hàng NN&PTNT có thể cho vay nhiều hơn (trung bình 12 triệu đồng/hộ)
nhưng khó tiếp cận do buộc phải có thế chấp. Vay nóng thì đơn giản hơn nhiều nhưng lãi
suất quá cao. Nhiều hộ vay được ít nên thường dùng tiền để chi tiêu thay vì đầu tư sản
xuất nên không trả được nợ và không được vay nữa. Đồng thời một số hộ khác do không
có kinh nghiệm làm ăn nên thua lỗ hoặc mất mùa cũng không có trả nợ. Thậm chí có hộ
còn phải bỏ trốn khi chủ nợ đến tìm. Rõ ràng vòng nghèo đói đang dần xiết chặt những
hộ này.
Khung 2: Lún sâu vào nợ nần
Chị Hồng ở phường Kinh Dinh, Phan Rang có 5 người con. Chồng chị làm thợ
bánh mì. Mỗi tháng anh đưa cho chị khoảng 150.000-200.000 đồng cho tiền
chợ. Vì nhà đông miệng ăn nên số tiền như vậy không thể đủ chi tiêu. Cách đây
mấy năm, chị cần một khoản tiền 500.000 đồng để đóng tiền học cho các con
và để trả số nợ chị vay trước đó của một người trong xóm. Vì thế chị đem cầm
hộ khẩu của gia đình cho một chủ nợ để vay 500.000 nhưng đến nay vẫn chưa
trả được. Tiền lãi mẹ đẻ lãi con nên số tiền nợ bây giờ đã là 1 triệu rưỡi.
Lúc con gái xin đi làm, chị cần sổ hộ khẩu nhưng sổ hộ khẩu chủ vẫn giữ. Để
lấy được sổ hộ khẩu về, chị Hồng phải trả hết số nợ cũ. Vì vậy chị mới đi mua
một cái tivi trả góp trị giá 4,3 triệu và bán lại cho chủ nợ với giá 3 triệu. Giá
thỏa thuận là 3 triệu nhưng chị chỉ được nhận về 1 triệu rưỡi bởi vì số còn lại
đã được trừ vào tiền nợ. Mặc dù với số tiền 1 triệu rưỡi còn lại chị cũng đã trả
được cho cửa hàng một chút nhưng vẫn không thể trả góp theo đúng hạn được.
Số tiền lãi bị cộng lãi tổng cộng lên đến 7 triệu. Nợ nhiều quá nhưng không có
tiền trả nên chị Lan Anh chỉ có cách duy nhất là đi trốn mỗi khi chủ nợ đến.
Là kết quả của lịch sử, Ninh Thuận là nơi có nhiều nhóm dân tộc thiểu số sinh sống
(khoảng 30% số hộ). Cùng với sự phát triển chung, những nhóm dân tộc này cũng có đã
có nhiều thay đổi từ văn hóa truyền thống đến cách thức làm ăn. Các tập tục lạc hậu dần
biến mất, thay vào đó là sự thu nạp lối sống hiện đại của người Kinh. Tuy nhiên, nhìn
chung thì người thiểu số vẫn còn nhiều hạn chế so với người Kinh: sinh sống ở vùng xa
thị trường, ít khả năng tiếp cận đất đai canh tác một cách chính thức và công bằng, ít khả
năng tiếp cận vốn vay và các tài sản phục vụ sản xuất, hạn chế trong việc tiếp cận các
dịch vụ xã hội... Tất cả phản ánh qua sự khác biệt về mức sống mà đáng lưu ý nhất là
người thiểu số có tỷ lệ hộ nghèo cao gấp đôi so với người Kinh. (Xem Bảng 2)
Bảng 2: Đặc điểm mức sống ở Ninh Thuận theo thành phần dân tộc
Số người
trong hộ
bình quân
(người)
Chi tiêu bình
quân
người/năm
(1000đ)
Tỷ lệ nghèo
(%)
Học vấn
trung bình
của chủ hộ
(năm)
Học vấn trung
bình của người
trưởng thành
(năm)
Chung 5,15 2800 30,2
Kinh 5,00 2974 22,1 5,1 6,0
Thiểu số 5,48 2403 48,9 3,3 3,1
Nguồn: Số liệu điều tra thực tế Ninh Thuận, 2004
Ngoài ra, ở Ninh Thuận, các hộ có chủ hộ là nữ do góa bụa hay ly dị thường có mức sống
thấp. Phụ nữ ở đây phần đông làm nông (39%) hoặc làm thuê (24%). Đây là hai loại
ngành nghề đòi hỏi người phụ nữ phải tốn nhiều sức lực trong khi thu nhập lại quá ít ỏi
và bấp bênh. Thêm vào đó ở đây còn có tình trạng không bình đẳng trong thù lao giữa
nam và nữ. Thường thì người nữ có thu nhập thấp hơn người nam cho dù cùng làm một
công việc như nhau. Cho nên, không gì lạ khi các hộ có chủ hộ là nữ có mức sống thấp.
Ngoài ra, số liệu điều tra còn cho thấy có sự khác biệt đáng kể trong số năm đi học trung
bình giữa nam và nữ làm chủ hộ. Bình quân trình độ học vấn của nữ chủ hộ thấp hơn nam
chủ hộ hơn 2 năm đi học.
Trình độ học vấn của các hộ gia đình ở Ninh Thuận ở mức rất thấp, trung bình một người
có khả năng lao động trong hộ chỉ có khoảng 5 năm đi học, tức còn chưa học hết bậc tiểu
học. Số liệu điều tra ở Ninh Thuận cho thấy 94% chủ các hộ nghèo chỉ có trình độ trung
học cơ sở hoặc thấp hơn. Trong đó, những hộ có chủ hộ chỉ có trình độ tiểu học trở xuống
hay không đi học là có tỷ lệ nghèo vào loại cao nhất, lần lượt là 27,4% và 44,4%. Ở phía
ngược lại, nếu hộ được khảo sát có chủ hộ có trình độ trung học phổ thông thì tỷ lệ nghèo
thấp hơn. Và không có một hộ nào có trình độ đại học trở lên lại nghèo.
Các tính toán sơ bộ ở Ninh Thuận cho thấy chi phí để người nghèo có thể cho con đi học
lên đến 225.000 đồng/ 1 năm/ 1 học sinh đối với cấp tiểu học và 450.000 đồng đối với
cấp trung học cơ sở. Đối với một gia đình nghèo có hai con đi học trở lên thì chi phí giáo
dục thực sự là gánh nặng lớn với họ. Mặc dù ngành giáo dục đã có chính sách miễn giảm
học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường nhưng đó không phải là chi phí lớn nhất.
Người dân cho biết phần lớn chi phí liên quan đến việc cho con đi học thường phải đóng
ngay trong tháng đầu tiên của năm học. Khoản chi lớn bằng tiền mặt trong khoảng thời
gian ngắn khiến cho gia đình nghèo khó trang trải hơn. Không ít trẻ em đã phải bỏ học vì
gia đình không có đủ tiền để nộp vào đầu năm.
Ngoài ra, việc cho con đi học cũng gặp nhiều trở ngại khác. Chi phí cơ hội cao là một
trong những trở ngại đó. Trẻ em ở Ninh Thuận có thể phải chia sẻ gánh nặng cuộc sống
với gia đình. Từ 10 tuổi trở lên là các em có thể nhận được những công việc tương đối ổn
định và có thu nhập cụ thể như đi ở, chăn gia súc, lượm củi, lượm phân bò để bán. Chính
vì phải kiếm tiền mà các em không được đi học. Bên cạnh đó, nhận thức của cha mẹ về ý
nghĩa của việc đi học còn nhiều lệch lạc. Nhiều gia đình cho con nghỉ học chỉ vì “biết
đọc, biết tính là đủ rồi”, các em gái còn chịu thiệt thòi hơn với quan niệm “con gái học
cao làm gì”. Nhà ở quá xa trường học cũng là yếu tố ngăn trở việc học tập của các em.
Hậu quả là trẻ em nghèo ở Ninh Thuận thường không đi học, mà có đi học thì cũng chỉ
học đến lớp 3 hoặc 4 mà thôi.
Khung 3: Kiếm tiền thay vì đi học
Với sự phát triển của ngành chăn nuôi việc các chủ trang trại, các chủ nuôi cừu
hay bò quy mô lớn thuê người đi chăn cừu hay bò cho mình là chuyện phổ biến.
Cháu Thuở, con thứ 3 trong số 6 người con của ông Dương Văn Luân (thôn Từ
thiện, xã Phước Dinh) học chưa hết lớp 1 đã bỏ học và hiện đang trông một
đàn gia súc 25 con cho một gia đình khác cùng thôn. Nhà chủ sau 1 năm sẽ trả
800,000đ cho bố mẹ, nhà chủ nuôi cơm và cho 1 bộ quần áo. Khi được hỏi tại
sao lại cho cháu nghỉ học để đi chăn bò ông Luân cho biết là gia đình không đủ
khả năng để nuôi cùng một lúc 4 con đi học.
Đã vậy, các hộ gia đình ở Ninh Thuận lại rất đông con. Trung bình một hộ có 5,15 người,
là tỷ lệ rất cao nếu biết rằng trung bình trong vùng Đông nam bộ chỉ có 4,02 người/hộ và
nếu so với cả nước thì chỉ thấp hơn các tỉnh như Hà Giang 5,24, Lai Châu 5,85, Sơn La
5,33, Gia Lai 5,16, Đắc Lắc 5,18 (theo ĐTMSHGĐ2002). Nếu phân theo nhóm chi tiêu
thì trung bình một gia đình thuộc nhóm nghèo có đến 5,7 người trong khi một gia đình
thuộc nhóm giàu chỉ có 3,9 người, tức quy mô hộ cao hơn khoảng 1,8 người. Cần lưu ý là
nhóm hộ nghèo chung ở cả vùng Đông Nam bộ có quy mô trung bình chỉ là 5,19. Nếu
phân theo thành phần dân tộc thì người Kinh có quy mô hộ nhỏ hơn so với người thuộc
nhóm dân tộc thiểu số. Trung bình một hộ người Kinh có 5 nhân khẩu thì một hộ người
thiểu số có 5,5 nhân khẩu. Đồng thời người dân tộc có tỷ lệ phụ thuộc cao hơn người
Kinh (40% so với 38%). Lý do hết sức đơn giản là trình độ nhận thức thấp khiến họ
không nhận ra rằng việc sinh đẻ nhiều sẽ làm cho họ nghèo hơn hay con cái không được
chăm sóc tốt hơn. “Trời sinh voi thì sinh cỏ” là quan niệm thường thấy ở nhóm người dân
tộc thiểu số. Ở nhóm người này hầu như không có khái niệm về các biện pháp tránh thai.
Nguồn thu nhập từ lao động trẻ em cũng là một lý do khiến họ sinh đẻ nhiều.
Khung 4: Đông con và cuộc sống tạm bợ
Thanh laáy choàng naêm 20 tuoåi vaø ñeán nay ôû tuoåi 28 chò ñaõ kòp cho ra ñôøi 5 ñöùa
con. Caû gia ñình soáng trong moät tuùp leàu döïng taïm taïi ở ven đê phường Đạo
Long, thị xã Phan Rang. Trong caùi goïi laø nhaø ñoù chaúng coù giöôøng, khoâng
chieáu, khoâng ñieän cuõng chaúng nöôùc. Choàng Thanh laøm ngheà thôï hoà với đồng
lương bữa có bữa không nên cũng chỉ đủ tiền cho anh “làm vài xị”. Ñöùa con
gaùi lôùn naêm nay ñaõ leân 7 tuoåi nhöng chöa ñöôïc ñi hoïc bôûi vì phaûi ôû nhaø giuùp
maù troâng caùc em.
Chính quyền Ninh Thuận hiện đã đặt quyết tâm xóa đói giảm nghèo lên hàng ưu tiên và
ra sức huy động các nguồn lực phục vụ cho chiến lược này. Tuy nhiên, vấn đề là họ
không biết bắt đầu từ đâu khi mà xung quanh có quá nhiều yếu tố có thể gây nghèo. Các
PPA thực hiện ở đây cũng chỉ nêu ra các lý do chung nhưng chưa nhấn mạnh đến các lựa
chọn ưu tiên cho chiến lược. Đồng thời các nhận định này phản ánh quan điểm chung
nhất (Average Opinion) về mặt định tính nhưng lại thiếu đi sự phân tích chiều sâu và các
bằng chứng về mặt lượng. Do đó, rất cần một phân tích định lượng khẳng định tầm quan
trọng của từng yếu tố ảnh hưởng đến nghèo đói ở tỉnh Ninh Thuận.
Câu hỏi thảo luận
1. Anh (chị) hãy lập luận rằng biến phụ thuộc (biến chính sách mà chính phủ muốn
thay đổi hiện trạng của địa phương nói trên)và các biến độc lập (các nhân tố mà
chính phủ có thể tác động làm thay đổi biến chính sách) trong tình huống này là
các biến nào?
2. Thông thường để gợi ý chính sách làm thay đổi tình trạng của biến phụ thuộc mà
anh (chị) nêu ra thì các dạng mô hình kinh tế lượng nào sẽ được đề nghị?
3. Hãy viết ra dạng hàm, định nghĩa chi tiết từng biến và giải thích tại sao các anh
(chị) lại chọn dạng hàm như vậy?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- _cac_phuong_phap_phan_tich.pdf