Nâng cao chất lượng giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Trước viễn cảnh về sự phát triển của giáo dục trong bối cảnh cuộc Cách mạng

công nghiệp lần thứ tư, một trong những yêu cầu đặt ra là phát triển nguồn lực đội

ngũ giáo viên để có thể đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng liên tục

thay đổi trong môi trường lao động mới. Điều này đặt ra cho giáo dục và đào tạo sứ

mệnh to lớn là chuẩn bị đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

Để làm được như vậy, chúng ta cần khẳng định tầm quan trọng của một hệ thống

giáo dục hỗ trợ học tập suốt đời cũng như cách thức thực hiện trong bối cảnh mới.

Nội dung chính là làm rõ một số khái niệm về chất lượng giáo viên, hội nhập quốc

tế. Trong đó, tác giả chỉ rõ vai trò và ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng giáo viên

trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra một số định

hướng cho giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong xu thế hội

nhập quốc tế hiện nay

pdf9 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 17/05/2022 | Lượt xem: 434 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Nâng cao chất lượng giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO VIÊN TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Hiếu1 Tóm tắt Trước viễn cảnh về sự phát triển của giáo dục trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, một trong những yêu cầu đặt ra là phát triển nguồn lực đội ngũ giáo viên để có thể đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng liên tục thay đổi trong môi trường lao động mới. Điều này đặt ra cho giáo dục và đào tạo sứ mệnh to lớn là chuẩn bị đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Để làm được như vậy, chúng ta cần khẳng định tầm quan trọng của một hệ thống giáo dục hỗ trợ học tập suốt đời cũng như cách thức thực hiện trong bối cảnh mới. Nội dung chính là làm rõ một số khái niệm về chất lượng giáo viên, hội nhập quốc tế. Trong đó, tác giả chỉ rõ vai trò và ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra một số định hướng cho giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. Từ khóa: Giáo viên; chất lượng; hội nhập (Teacher, Quality, Integration). 1. Đặt vấn đề Hiện nay với cuộc cách mạng Khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, bùng nổ thông tin, kinh tế tri thức phát triển. Thế giới đang hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp mới, trong đó tri thức là động lực phát triển. Với sự phát triển đó của thế giới, đòi hỏi người lao động phải có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu, tay nghề vững. Vì vậy trình độ tri thức sẽ quyết định trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Hiện nay, khoa học - công nghệ đã trở thành công cụ chính của sự phát triển kinh tế - xã hội, giúp cho năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm cao, giá thành sản phẩm giảm, chi phí nguyên liệu đầu vào giảm, đáp ứng được các yêu cầu ngày càng khó tính của người sử dụng. Đồng thời, trong giáo dục sự phát triển của khoa học - công nghệ cũng đã làm thay đổi mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục và đòi hỏi giáo dục phải đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy trong thời gian qua Đảng, Nhà nước và ngành giáo dục đã có nhiều chủ trương chính sách để xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp giáo dục nước nhà. 1 Khoa Tâm lý – Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên; Số điện thoại: 0915212911; Email: nguyenngochieutlgd@gmail.com. 232 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Đào tạo giáo viên là để chuẩn bị cho giáo viên thực hiện hoạt động giáo dục ở trường phổ thông. Vì thế, những yêu cầu cần đạt đối với sinh viên tốt nghiệp (hay chuẩn đầu ra) của hệ đào tạo đại học sư phạm, trước hết, cần căn cứ trên chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông và xu thế phát triển của giáo dục phổ thông trong mối quan hệ với bối cảnh xã hội. 2. Chất lượng giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế 2.1. Một số vấn đề chung Quá trình hội nhập quốc tế ở nước ta đang diễn ra ngày càng sâu rộng và đã đem lại những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, ngoài việc giúp Việt Nam tiếp thu được khoa học – công nghệ mới và kỹ năng quản lý tiên tiến, quá trình hội nhập còn góp phần đào tạo cho Việt Nam có được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý. Tuy nhiên, hội nhập cũng đồng thời đặt giáo dục Việt Nam trước một áp lực lớn là phải không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo để xây dựng được nguồn nhân lực có tính cạnh tranh cao. Trong bối cảnh yêu cầu đào tạo phải phù hợp với chuẩn chung của khu vực và quốc tế, lực lượng lao động Việt Nam sau đào tạo phải làm cạnh tranh được không chỉ tại thị trường lao động ngoài nước mà còn phải làm sao cạnh tranh được ngay tại thị trường lao động Việt Nam. Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu lớn trong giáo dục, như tỉ lệ người đi học cao; chất lượng học tập của học sinh, nhất là học sinh tốp đầu có thể sánh với học sinh các nước tiên tiến; đội ngũ giáo viên về cơ bản đủ về số lượng, cơ cấu môn học, đạt và vượt chuẩn trình độ đào tạo. Theo thống kê, hiện nay cả nước có trên 1.466.322 cán bộ quản lý, giáo viên mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên (trong đó công lập là 1.350.095, ngoài công lập 116.227). Về cơ bản, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học đã đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo, trong đó: mầm non là 96,6%, tiểu học là 99,7%, trung học cơ sở là 99,0%, trung học phổ thông là 99,6% [6]. Hầu hết cán bộ quản lý, giáo viên có lòng yêu nghề, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, có ý chí vươn lên, tích cực học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Năng lực sư phạm của phần lớn nhà giáo được nâng lên, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đã tham mưu tích cực và hiệu quả cho cấp ủy Đảng và Chính quyền các cấp trong việc xây dựng các chính sách cán bộ, giáo viên, học sinh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của bộ, ngành, địa phương. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đã tăng mạnh về số lượng, chất lượng và ngày càng đồng bộ về cơ cấu trong 5 năm qua, từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục của đất nước. Trên hành trình hội nhập, giáo dục Việt Nam mấy năm gần đây có những cố gắng nhất định. Nhưng cũng phải thẳng thắn mà nói rằng, trong thực tế, giáo dục Việt Nam nói chung, 233Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN thực trạng giáo viên Việt Nam nói riêng đang đứng trước nguy cơ bị “cô lập” và khó hoà nhập được với các trào lưu giáo dục lớn trên thế giới bởi một số nguyên nhân sau: + Điều dễ nhận thấy đầu tiên là các nhà cung ứng giáo dục nước ngoài với mục tiêu lợi nhuận là tối thượng, chí ít sẽ sao nhãng mục tiêu dạy người, chưa nói tới việc bóp méo mục tiêu này vì những ý đồ khác. + Chương trình, giáo trình giảng dạy hầu hết do giáo viên, giảng viên trong nước biên soạn, chưa được tiêu chuẩn hoá và công nhận trên trường quốc tế. Dẫn đến việc bằng cấp từ phổ thông đến đại học cũng chưa được công nhận và đánh giá cho chuẩn, đúng mức. Điều này, khiến cho sinh viên tham gia các chương trình trao đổi, giao lưu hàng năm với các trường đại học trên thế giới, hoặc chuyển ngang sang học tiếp tại các trường đại học quốc tế, hoặc xét học tiếp các cấp độ cao hơn đối với các học sinh đã tốt nghiệp trong nước. + Chúng ta chưa thực sự có các cơ quan, tổ chức trung gian làm việc độc lập, khách quan với các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục để có các ý kiến phản biện, kịp thời chấn chỉnh cũng như góp ý cho các dự thảo hoặc Luật Giáo dục. + “Đầu vào” của các trường đại học sư phạm chưa cao, chưa có được những ưu tiên thỏa đáng về chính sách cho loại trường này, chế độ lương bổng của giáo viên khiến cho loại hình sư phạm chưa có sức thu hút nhân tài - những người thực sự có tâm, có đức vào làm trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo con người. Hệ thống các phòng thí nghiệm, nghiên cứu còn quá nghèo nàn, không hút được các nhà nghiên cứu khoa học trẻ. + Khó khăn về năng lực cạnh tranh trong giáo dục, không chỉ cạnh tranh với nước ngoài mà chúng ta còn phải cạnh tranh ngay trên nước mình. + Khả năng sử dụng ngoại ngữ (chủ đạo là tiếng Anh) cũng là rào cản không nhỏ trong xu thế hội nhập quốc tế của đội ngũ giáo viên hiện nay. Do đó, phát triển đội ngũ giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp cần đủ về số lượng, cơ cấu và đảm bảo chất lượng giáo dục. Do đó, cần khảo sát và lập đề án vị trí việc làm sát thực tiễn của đơn vị nhằm tham mưu đề xuất với các cấp chính quyền địa phương ra quyết định tuyển dụng, điều động giáo viên cho nhà trường đảm bảo đủ số lượng và cơ cấu giáo viên theo quy định. 2.2. Chất lượng giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế Đội ngũ giáo viên là đội ngũ nòng cốt quyết định chất lượng giáo dục, có nhiệm vụ to lớn trong việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, trong việc tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến thế hệ trẻ đến với quần chúng nhân dân. Do đó nhà trường phải quan tâm bồi dưỡng đội ngũ giáo viên vững vàng về tư tưởng chính trị, hiểu biết một cách cụ thể về chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục . Đội ngũ giáo viên hơn ai hết phải hiểu biết tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước và địa phương. 234 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Chất lượng đội ngũ giáo viên với đặc trưng sản phẩm là con người có thể hiểu là các phẩm chất, giá trị nhân cách và năng lực sống và hoà nhập đời sống xã hội, giá trị sức lao động năng lực hành nghề của người giáo viên tương ứng với mục tiêu đào tạo của từng bậc học, ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng đội ngũ giáo viên được thể hiện ở: Trong khi các mô hình giáo dục trong quá khứ tập trung vào việc cung cấp cho người học các kiến thức, kỹ năng cần thiết để giúp họ trở thành những người có tay nghề chuyên môn cao, thì giáo dục ngày nay cần quan tâm nhiều hơn đến việc dạy học sinh cách tự học. Giáo dục dạy cho học sinh học cách tư duy, cách đánh giá các tình huống, các vấn đề phức tạp trong cuộc sống, qua đó hình thành năng lực giải quyết vấn đề. Công nghệ phát triển có ảnh hưởng lớn đến vai trò của người giáo viên trong lớp học. Hệ thống quản lý trường học với sự hỗ trợ của công nghệ có thể cung cấp hệ thống dữ liệu giúp giáo viên theo dõi sự tiến bộ của mỗi lớp học, qua đó có những phản hồi ngay lập tức với những khó khăn mà học sinh đang gặp phải. Nhưng công nghệ dù hiện đại và quan trọng đến đâu cũng không thay thế được vai trò của giáo viên hoặc biến người giáo viên thành rô-bốt. Bởi vậy, làm thế nào để tận dụng và làm chủ công nghệ, để công cụ này hỗ trợ và tạo ra sự tự do, sáng tạo trong giáo dục là một thách thức với mỗi giáo viên và cơ sở giáo dục. Ngày nay người học có thể học bằng công nghệ dạy học được trang bị đầy đủ với không gian rộng hơn rất nhiều so với lớp học và vô số ông thầy trên mạng so với chỉ một ông thầy trong lớp học kiểu cũ; đối tượng giao tiếp của người học (cộng đồng mạng) sẽ lớn hơn rất nhiều so với số lượng bạn bè trong lớp học Do đó, cần xác định lại vai trò người thầy trong học tập kết nối mạng. Năng lực và vị trí người thầy ở đây cần phải thể hiện rõ ở vai trò là người hướng dẫn, xúc tác giúp học sinh, sinh viên biết tự định hướng trong học tập. Theo UNESCO, ngày nay chức năng giáo viên đã thay đổi, cần điều chỉnh và xác định rõ hơn trong bối cảnh xã hội mới hiện nay. Do đó, cần tập trung tới các vấn đề cụ thể dưới đây: (1) Đảm nhận nhiều chức năng, có trách nhiệm nặng hơn trong việc lựa chọn nội dung dạy học và giáo dục (2) Tổ chức việc học của học sinh, sử dụng tối đa những nguồn tri thức trong xã hội (3) Cá biệt hóa học tập, thay đổi tính chất trong quan hệ thầy trò (8) Giảm bớt và thay đổi kiểu uy tín truyền thống trong quan hệ với học sinh nhất là đối với học sinh lớn và với cha mẹ học sinh (7) Yêu cầu giáo viên tham gia hoạt động rộng rãi trong và ngoài nhà trường (6) Thắt chặt hơn mối quan hệ với cha mẹ học sinh và cộng đồng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống (5) Hợp tác rộng rãi và chặt chẽ hơn với các giáo viên cùng trường, thay đổi quan hệ giữa các giáo viên với nhau (4) Sử dụng rộng rãi hơn những phương tiện dạy học hiện đại CHỨC NĂNG GIÁO VIÊN TRONG BỐI CẢNH MỚI 235Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN - Những nhân tố tác động đến nâng cao chất lượng giáo viên trong xu thế hội nhập hiện nay + Những yêu cầu, điều kiện mới của kinh tế - xã hội, của công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập thế giới. + Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ. + Những yêu cầu đổi mới giáo dục và chất lượng dạy học. + Quá trình đào tạo, đặc biệt là quá trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. + Hoàn cảnh và điều kiện lao động sư phạm của người giáo viên. + Vị trí, vai trò của giáo viên trong hoạt động dạy học. + Chế độ đãi ngộ, chính sách dành cho giáo viên. + Yêu cầu về ngoại ngữ (tiếng Anh), khả năng ứng dụng công nghệ trong dạy học và giáo dục. Do vậy, khi xây dựng và thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giáo viên trong điều kiện đổi mới hiện nay cần tập trung chú trọng các nguyên tắc cơ bản dưới đây: 2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế - Áp dụng các yêu cầu đổi mới giáo dục vào căn cứ quy hoạch mạng lưới Sư phạm, thu hút người giỏi vào Sư phạm. Nhằm dự báo được nhu cầu về đội ngũ giáo viên, yêu cầu của đổi mới giáo dục để xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên. Xác định rõ tầm nhìn chiến lược trong việc nâng cao chất lượng giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, khắc phục tình trạng giáo viên môn thừa, môn thiếu không đồng bộ, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng được nhiệm vụ nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Các nguyên tắc đảm bảo chất lượng giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế Đảm bảo xu thế sáng tạo và hợp tác trong học tập Đảm bảo sự hài hòa giữa tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế Đảm bảo tính thống nhất giữa nghiên cứu khoa học và học tập Đảm bảo trách nhiệm ở tất cả các khâu Đảm bảo hiệu quả trong đánh giá nguồn lực Đảm bảo dịch vụ và quá trình định hướng 236 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Tập trung thu hút người giỏi vào sư phạm để đào tạo thành giáo viên giỏi bằng cách khảo sát, quy hoạch lại số lượng, cơ cấu các loại giáo viên phổ thông để xác định, điều chỉnh cân bằng cung - cầu. Tiếp đó điều chỉnh chỉ tiêu tuyển sinh sư phạm bảo đảm đầu ra có việc làm. Một trong các căn cứ để lập quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên là các yêu cầu đổi mới giáo dục; các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Giáo dục, các Nghị định của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước; Thông tư 20 ngày 22/8/2018 hướng dẫn theo chuẩn và định mức biên chế sự nghiệp giáo dục ở các trường công lập; Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông; Chỉ thị, hướng dẫn năm học; thực trạng nhà trường: số lớp; số lượng, cơ cấu giáo viên hiện có và quy mô phát triển của nhà trường thay đổi theo từng năm học và giai đoạn nhất định; đặc biệt là kế hoạch chiến lược, kế hoạch xây dựng trường chuẩn quốc gia của nhà trường. - Tạo môi trường tự do sáng tạo của giáo viên và học sinh trong trường học Cần xác định đơn vị trường học là một “công trường” thi công trực tiếp nhân cách học sinh theo bản thiết kế của chương trình giáo dục phổ thông, vì vậy phải là một môi trường tự do sáng tạo của giáo viên và học sinh. Do đó, người quản lí nhà trường phải có năng lực tổ chức hoạt động sáng tạo đó, để qua đó vừa phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên, vừa nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. Điều này tất yếu phải có chính sách phát triển đội ngũ cán bộ quản lí trường học. Đây phải coi là một trong 2 giải pháp đòn bẩy tạo đột biến chất lượng giáo dục Việt Nam: giáo viên giỏi nhất + cán bộ quản lí trường học giỏi nhất. - Quản lý các hoạt động sư phạm của giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp Thực hiện đo, đánh giá chất lượng bằng chuẩn nghề nghiệp và cạnh tranh của giáo viên là cạnh tranh với chuẩn nghề nghiệp. Đó cũng là cách làm cho chuẩn nghề nghiệp đi vào cuộc sống nhà trường, cuộc sống nghề nghiệp của chính từng giáo viên. Chuẩn đầu ra về phẩm chất/giá trị nghề nghiệp bao gồm: + Những phẩm chất/giá trị hướng vào học sinh: Thừa nhận, tôn trọng, yêu thương, công bằng, khoan dung với học sinh; Tin tưởng tất cả mọi học sinh đều có thể học được; Cam kết nuôi dưỡng và phát triển tiềm năng của từng học sinh; Coi trọng sự đa dạng của học sinh. + Những phẩm chất/giá trị mang bản sắc người giáo viên: Trung thực, lạc quan, cởi mở, ham học hỏi; Kiên trì, kiên nhẫn, sáng tạo, thân thiện; Gương mẫu, sống lành mạnh, chuẩn mực. + Những phẩm chất/giá trị phục vụ nghề nghiệp: Yêu nghề; tự hào và say mê với nghề giáo; Trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp; Cam kết đảm bảo chất lượng giáo dục. Chuẩn đầu ra về năng lực nghề nghiệp gồm: + Nhóm năng lực nền tảng: Năng lực giao tiếp và hợp tác; Năng lực công nghệ thông tin; Năng lực ngoại ngữ; Năng lực thích ứng với sự thay đổi; Năng lực nghiên cứu khoa học; 237Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN + Nhóm năng lực chuyên ngành: Năng lực chuyển đổi những tri thức bác học (tri thức được cộng đồng các nhà bác học thừa nhận) thành tri thức cần dạy (thể hiện trong chương trình) và tiếp đó, chuyển đổi từ tri thức cần dạy thành tri thức được dạy trên lớp học. + Nhóm năng lực nghiệp vụ sư phạm: Năng lực định hướng sự phát triển học sinh; Năng lực dạy học; Năng lực giáo dục; Năng lực công tác xã hội; Năng lực học tập và phát triển nghề nghiệp. Triển khai đánh giá đội ngũ giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên đảm bảo chính xác, khoa học. Xử lý kết quả đánh giá, xếp loại giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên nhằm nâng cao năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục; năng lực giáo dục; năng lực hoạt động chính trị, xã hội; năng lực phát triển nghề nghiệp. Các năng lực này đều có thể phát triển rất tốt trong quá trình đào tạo nâng cao trình độ, song cũng có thể bổ sung, hoàn thiện qua quá trình bồi dưỡng, tập huấn tại nhà trường và qua thực tế công tác. - Tạo môi trường thuận lợi và chính sách đãi ngộ phù hợp để tạo động lực cho đội ngũ giáo viên phát triển Động lực làm việc là một trong những yếu tố quyết định đến năng suất, hiệu quả và chất lượng làm việc, học tập và bồi dưỡng của đội ngũ giáo viên. Động lực làm việc tốt sẽ giúp họ hăng say trong giảng dạy và giáo dục; say mê tìm tòi, học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; sẵn sàng hợp tác với đồng nghiệp trong công việc; có tinh thần trách nhiệm cao trong mọi hoạt động, có sự gắn bó với nhà trường, từ đó giúp cho ĐNGV tự giác, chủ động hoàn thành tốt các công việc, các nhiệm vụ mà nhà trường giao phó. Điều quan trọng cần thấy rõ là thu nhập của giáo viên phải đủ sống ở mức trung bình trong tương quan xã hội, sao cho họ toàn tâm, toàn ý, toàn sức cho nghề giáo dục. Do vậy, cần nghiên cứu cũng như có những đề xuất trong việc xây dựng hệ thống thang bảng lương riêng cho đội ngũ giáo viên. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách mà nhà nước ban hành cho giáo viên giảng dạy, để tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên phát huy được năng lực giúp họ toàn tâm toàn lực vì sự nghiệp giáo dục và đào tạo cần đảm bảo cho họ những điều kiện về vật chất cũng như tinh thần. Cần bổ sung hoàn thiện và thực hiện đầy đủ các chế độ phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Trong điều kiện hiện nay chế độ đãi ngộ đối với giáo viên giỏi, giáo viên cốt cán còn chưa tương xứng với năng lực nên cần có chính sách riêng khuyến khích giáo viên tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ. - Nâng cao chất lượng giáo dục tại các cơ sở đào tạo giáo viên Hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển giáo dục tại các cơ sở đào tạo giáo viên nhằm mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả tự chủ. Đồng thời, đổi mới quản trị, quản lý đào tạo theo hướng tiệm cận chuẩn quốc tế; đổi mới quản lý nhà nước theo hướng quy định hệ thống chuẩn chất lượng; quy định về trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch thông tin về điều kiện đảm bảo chất lượng và chất lượng thực tế; tăng cường kiểm định chất lượng, thanh tra, kiểm tra và hoàn thiện hệ thống chế tài, xử lý vi phạm. 238 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá, cần có một chiến lược quốc gia và lộ trình quốc tế hóa, thúc đẩy hợp tác giáo dục xuyên quốc gia đối với hệ thống đào tạo giáo viên một cách rõ ràng. Cần có chiến lược trung hạn và dài hạn đầu tư vào đổi mới hệ thống quản trị ngành Sư phạm theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp và hiệu quả tiệm cận với chuẩn mực quốc tế; hiện đại hóa cơ sở hạ tầng đào tạo nghiên cứu, đặc biệt là hệ thống phòng thực hành, thí nghiệm; mở rộng không gian, khuyến khích tự do học thuật và thúc đẩy năng lực sáng tạo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra các trường thực hiện đầu tư các yếu tố đảm bảo chất lượng, trong đó tập trung phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ; đổi mới chương trình đào tạo; nghiên cứu, đào tạo các ngành nghề và phương thức đào tạo đáp ứng mô hình tăng trưởng của nền kinh tế và yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; mở rộng và tăng dần quy mô các chương trình đào tạo chất lượng cao, các chương trình đào tạo liên kết quốc tế với các trường nước ngoài uy tín; đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ các trình độ đào tạo... Triển khai học chế tín chỉ một cách khoa học, không hình thức; Xây dựng chương trình đào tạo và đề cương chi tiết các học phần trên cơ sở định hướng của POHE, KAS và CDIO. Thường xuyên tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xây dựng lại hệ thống chế tài xử phạt nặng hơn đối với vi phạm chất lượng giáo dục tại các cơ sở đào tạo giáo viên và xử lý nghiêm đối với vi phạm; công bố công khai kết quả kiểm định, kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm để rút kinh nghiệm và phòng ngừa chung. 3. Kết luận Trong xu thế hội nhập quốc tế, phát triển đội ngũ giáo viên luôn là vấn đề chiến lược của mỗi quốc gia vì đội ngũ giáo viên mang yếu tố hàng đầu quyết định chất lượng giáo dục. Đó là nguồn duy nhất đào tạo nguồn nhân lực có khả năng hiện thực hóa mọi kế hoạch, đặc biệt trong thế kỷ XXI - thế kỷ của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức. Mặt khác, nâng cao chất lượng giáo viên được xem là khâu đột phá, trọng tâm của công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông. Giáo viên được coi như yếu tố then chốt của cải cách, đổi mới giáo dục. Bởi lẽ, không có thầy giỏi về năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức tốt thì không thể có nền giáo dục chất lượng. Do đó, cần thiết áp dụng các yêu cầu đổi mới giáo dục vào căn cứ quy hoạch mạng lưới Sư phạm, thu hút người giỏi vào Sư phạm, tạo môi trường tự do sáng tạo của giáo viên và học sinh trong trường học và tạo môi trường thuận lợi và chính sách đãi ngộ phù hợp để tạo động lực cho đội ngũ giáo viên phát triển. Cùng với đó, không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục tại các cơ sở đào tạo giáo viên và quản lý các hoạt động sư phạm của giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp là những giải pháp cần thiết trong việc nâng cao chất lượng giáo viên hiện nay. Tài liệu tham khảo 239Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết 29- NQ/TW của Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ VIII, khoá XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá”. 2. Nguyễn Hữu Độ, Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ở Việt Nam, Bộ GD và ĐT, 2019. 3. Luật Giáo dục Việt Nam, 43/2019/QH14, Quốc hội, 2019. 4. Thông tư 20/2018/TT-BGDĐT ban hành Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018. 5. Tài liệu hướng dẫn đánh giá chất lượng trường đại học (theo công văn số 1237/ KTKĐCLGD-KDĐH ngày 03/8/2016), Bộ GD&ĐT, 2016. 6. https://moet.gov.vn 7. https://www.giaoduc.edu.vn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnang_cao_chat_luong_giao_vien_trong_boi_canh_hoi_nhap_quoc_t.pdf
Tài liệu liên quan