1. Thực trạng doanh nghiệp nhà nước
qua kết quả kiểm toán của cơ quan Kiểm
toán nhà nước
Năm 2010, Kiểm toán nhà nước thực hiện
kiểm toán báo cáo tài chính năm 2009 của
27 doanh nghiệp nhà nước, bao gồm 24 tập
đoàn, tổng công ty và 03 công ty nhà nước
độc lập. Kết quả kiểm toán các doanh nghiệp
nhà nước đã được công khai theo quy định
của Luật Kiểm toán nhà nước. Kết quả kiểm
toán của cơ quan Kiểm toán nhà nước đã
phản ánh thực trạng doanh nghiệp nhà nước
trên những mặt cơ bản sau đây:
(1) Về báo cáo tài chính:
Báo cáo tài chính của các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước được kiểm toán nhìn chung
đều có sự điều chỉnh theo kết quả kiểm toán.
Năm 2009, báo cáo tài chính của 27 doanh
nghiệp nhà nước được kiểm toán điều chỉnh
theo kết quả kiểm toán: tổng tài sản, tổng
nguồn vốn tăng 902 tỷ đồng; tổng doanh thu,
thu nhập thuần tăng 666 tỷ đồng; tổng chi phí
giảm 325 tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế tăng
991 tỷ đồng; thuế và các khoản phải nộp ngân
sách nhà nước tăng 1.094 tỷ đồng.
11 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 09/05/2022 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Một số vấn đề về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước qua kết quả kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn góp không chi phối
của nhà nước; đối tượng giám sát chưa đề cập
tới đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà
nước; chế tài thực hiện đối với doanh nghiệp,
chủ tịch hội đồng quản trị, thành viên hội
đồng quản trị, tổng giám đốc, thành viên ban
giám đốc, kế toán trưởng doanh nghiệp chưa
cụ thể khi lập báo cáo tài chính, báo cáo tự
đánh giá, xếp loại thiếu trung thực, để doanh
nghiệp mất vốn và hoạt động kém hiệu quả,
chưa đề cập tới chế tài đối với đại diện chủ sở
hữu; trách nhiệm công khai, minh bạch về số
liệu tài chính, kế toán chưa rõ ràng và chưa
kèm theo các chế tài nếu vi phạm.
Thứ tư, việc kiểm tra, kiểm soát đối với
doanh nghiệp nhà nước đã được tăng cường,
song vẫn còn bộc lộ hạn chế, bất cập, thiếu
vắng một kế hoạch trung hạn, sự phối kết
hợp giữa các cơ quan kiểm tra, kiểm soát như
Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Tài chính,
Kiểm toán nhà nước trong quá trình thanh tra,
kiểm tra, kiểm toán doanh nghiệp chưa thực
sự nhịp nhàng. Các đoàn thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán do nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan đã không kiểm tra được toàn diện
hoạt động của doanh nghiệp, trong kết luận,
báo cáo thanh tra, kiểm tra, kiểm toán một số
trường hợp còn có giới hạn về phạm vi và nội
dung thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, đó chính
là những “vùng tối” tiềm ẩn những rủi ro đối
với báo cáo tài chính cũng như hoạt động của
doanh nghiệp.
3. Một số giải pháp
Để doanh nghiệp nhà nước hoạt động có
hiệu quả, phát huy tốt vai trò chủ đạo, đầu tàu
Một số vấn đề về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp...
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 7/201222
của nền kinh tế, tương xứng với những lợi thế
và đầu tư của Nhà nước, theo chúng tôi, cần
thực hiện các giải pháp sau đây:
Một là, chú trọng xây dựng và thực thi hệ
thống kiểm soát nội bộ, hệ thống kế toán,
quan tâm tới chất lượng và hiệu quả công
tác quản trị doanh nghiệp. Hệ thống kiểm
soát nội bộ đủ mạnh, hệ thống kế toán, công
tác quản trị doanh nghiệp chất lượng và tin
cậy sẽ có tác dụng hạn chế, ngăn ngừa các
sai phạm trong các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, là cơ sở để doanh
nghiệp lập các báo cáo tài chính trung thực và
hợp lý trên những khía cạnh trọng yếu. Các
báo cáo tài chính này là cơ sở để lập các báo
cáo tự đánh giá, xếp loại của doanh nghiệp,
kết quả quản lý của hội đồng quản trị, điều
hành của ban giám đốc, phản ánh trung thực
tình hình hoạt động cũng như hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp. Việc thẩm định của
cơ quan đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp và
công bố kết quả xếp loại năm trước các doanh
nghiệp được tiến hành trên cơ sở các báo cáo
tự đánh giá, xếp loại của doanh nghiệp trung
thực, hợp lý, có tác dụng nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
Hai là, thực hiện nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật (Luật doanh nghiệp, Luật
Kế toán, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu
tư, Luật Xây dựng v.v.), quy định về giám sát
và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước, cơ chế tài chính, các chuẩn
mực kế toán, chế độ kế toán doanh nghiệp
trong hoạt động tài chính, kế toán và toàn bộ
hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
cần chú trọng tới công tác quản lý các khoản
nợ, phân loại nợ, đặc biệt là các khoản nợ
phải thu khó đòi để có giải pháp phù hợp
cũng như việc trích lập dự phòng nợ phải thu
khó đòi đúng quy định; cần hiểu rõ tầm quan
trọng của công tác kiểm kê tài sản, thực hiện
đúng quy định của Luật Kế toán về kiểm kê
tài sản, chú ý kiểm kê và xử lý kết quả kiểm
kê hàng tồn kho đúng quy định, ngăn chặn
kiểm kê hình thức, trích lập dự phòng giảm
giá hàng tồn kho một cách kịp thời, đúng
chế độ, nhằm khắc phục tình trạng “lãi giả,
lỗ thật” tại một số doanh nghiệp. Chấn chỉnh
công tác quản lý doanh thu, chi phí, khấu hao
tài sản cố định đảm bảo các chuẩn mực kế
toán, các chế độ tài chính, kế toán nhằm nâng
cao chất lượng quản trị doanh nghiệp và lập
báo cáo tài chính, đảm bảo trung thực và hợp
lý. Thực hiện nghiêm chỉnh việc lập báo cáo
và chế độ báo cáo tự đánh giá, xếp loại doanh
nghiệp, kết quả quản lý của hội đồng quản trị,
điều hành của ban giám đốc gửi cho các cơ
quan đại diện chủ sở hữu vốn kịp thời, đúng
quy định.
Ba là, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm, tìm kiếm các hợp đồng, đơn hàng, đẩy
mạnh các hoạt động xúc tiến bán hàng, tạo cơ
sở vững chắc cho việc tăng doanh thu, giảm
chi phí, giảm chỉ tiêu hàng tồn kho, tăng lợi
nhuận. Thực hiện tốt nội dung này sẽ góp
phần làm lành mạnh hóa nền tài chính của
doanh nghiệp, hạn chế được sai phạm khi lập
các báo cáo tài chính, nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Bốn là, nâng cao chất lượng, trình độ
chuyên môn, phẩm chất đạo đức của đội ngũ
cán bộ, công nhân, viên chức doanh nghiệp.
Đây là giải pháp vừa phải thực thi trước mắt,
vừa phải có chiến lược lâu dài và bài bản.
Chiến lược kinh doanh tốt, các quy chế, quy
trình, các thủ tục kiểm soát nội bộ khoa học,
nhưng sẽ không có kết quả tốt nếu thiếu vắng
đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức doanh
nghiệp có chuyên môn vững vàng và phẩm
chất đạo đức tốt. Thực hiện giải pháp này thì
việc tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và bố trí
cán bộ trong doanh nghiệp cần phải có chiến
lược bài bản, rõ ràng, công khai và minh bạch.
Năm là, nâng cao năng lực quản lý, điều
hành của đội ngũ cán bộ cấp cao của doanh
23
nghiệp (Chủ tịch Hội đồng quản trị tổng công
ty, tập đoàn; Chủ tịch Hội đồng thành viên
Công ty mẹ; Tổng Giám đốc tổng công ty, tập
đoàn, Công ty mẹ, Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên; Chủ tịch Hội đồng quản
trị, Giám đốc các công ty cổ phần có vốn góp
nhà nước chi phối;). Các cơ quan có thẩm
quyền phải có cơ chế thẩm tra, thẩm định,
đánh giá khoa học, khách quan, minh bạch để
lựa chọn, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ cấp cao
của doanh nghiệp đảm bảo đủ năng lực quản
lý, điều hành, có phẩm chất đạo đức, có khả
năng quy tụ, đoàn kết các cán bộ, công nhân,
viên chức doanh nghiệp nhằm thực hiện tốt
nhất các mục tiêu của doanh nghiệp.
Sáu là, nâng cao chất lượng hoạt động
giám sát và đánh giá của các cơ quan đại diện
chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước (Hội
đồng quản trị Công ty nhà nước, Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
Các Bộ quản lý ngành, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan trực thuộc Chính phủ, Bộ Tài chính);
vận dụng linh hoạt và hiệu quả các hình thức
giám sát như giám sát trực tiếp, giám sát gián
tiếp, giám sát trước, trong và sau hoạt động
của doanh nghiệp; tiến hành thẩm định và
công bố kết quả xếp loại năm trước của các
doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý lên
trang tin điện tử trên internet (website) của
đơn vị hoặc đăng báo hàng ngày của Trung
ương trong 03 số liên tiếp theo đúng quy định
của Quy chế 224, nhằm minh bạch hóa số
liệu tài chính, kế toán của doanh nghiệp.
Bảy là, đẩy mạnh hoạt động giám sát doanh
nghiệp của các cơ quan quản lý nhà nước (các
Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh);
tăng cường việc phối kết hợp giữa cơ quan
quản lý nhà nước và cơ quan đại diện chủ
sở hữu của doanh nghiệp nhà nước trong các
hoạt động giám sát doanh nghiệp; tiến tới các
cơ quan quản lý nhà nước thực hiện giám sát
cả đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà
nước để nâng cao trách nhiệm của cơ quan
này đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Tám là, xây dựng và ban hành Quy chế
giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần đổi mới
quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp có vốn góp của nhà nước trên
cơ sở kế thừa Quy chế 224 và Quy chế 169.
Quy chế mới về phạm vi giám sát cần bao
quát tới doanh nghiệp có vốn góp không chi
phối của nhà nước trên nguyên tắc ở đâu có
vốn và tài sản nhà nước thì ở đó có sự giám sát
hiệu quả; cần bổ sung đưa đại diện chủ sở hữu
của doanh nghiệp nhà nước vào đối tượng
giám sát để nâng cao trách nhiệm của chủ thể
này đối với doanh nghiệp; cụ thể hóa các chế
tài thực hiện đối với doanh nghiệp, chủ tịch
hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản
trị, tổng giám đốc, thành viên ban giám đốc,
kế toán trưởng doanh nghiệp nếu lập báo cáo
tài chính, báo cáo tự đánh giá, xếp loại thiếu
trung thực, để doanh nghiệp mất vốn và hoạt
động kém hiệu quả; cụ thể hóa chế tài đối với
đại diện chủ sở hữu nếu doanh nghiệp hoạt
động yếu kém; cụ thể hóa trách nhiệm công
khai, minh bạch về số liệu tài chính, kế toán
của doanh nghiệp và kèm theo các chế tài nếu
vi phạm.
Chín là, thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát
đối với doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở kế
hoạch trung hạn được xây dựng khoa học, hợp
lý và phù hợp với thực tiễn; phối kết hợp nhịp
nhàng giữa các cơ quan kiểm tra, kiểm soát
như Thanh tra chính phủ, Thanh tra tài chính,
Kiểm toán nhà nước trong quá trình thanh tra,
kiểm tra, kiểm toán doanh nghiệp. Thực hiện
thanh tra, kiểm tra, kiểm toán toàn diện hoạt
động của doanh nghiệp để trong kết luận, báo
cáo thanh tra, kiểm tra, kiểm toán không còn
có giới hạn về phạm vi và nội dung thanh tra,
kiểm tra, kiểm toán, không hình thành những
“vùng tối” rủi ro đối với báo cáo tài chính
cũng như hoạt động của doanh nghiệp.
Một số vấn đề về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp...
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 7/201224
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính, Thông tư số 115/2007/TT-BTC ngày
25-9-2007 hướng dẫn một số nội dung về giám sát và
đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước, Hà Nội, 2007.
2. Bộ Tài chính, Thông tư số 42/2008/TT-BTC ngày
22-5-2008 hướng dẫn một số Điều của Quy chế giám
sát đối với doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua
lỗ, hoạt động không có hiệu quả ban hành kèm theo
Quyết định số 169/2007/QĐ-TTg ngày 8/11/2007 của
Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội, 2008.
3. Chính phủ, Nghị định số 132/2005/NĐ-CP ngày
20-10-02005 về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
chủ sở hữu nhà nước đối với công ty nhà nước, Hà
Nội, 2005.
4. Chính phủ, Nghị định số 86/2006/NĐ-CP ngày 21-
8-2006 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
132/2005/NĐ-CP ngày 20-10-2005 của Chính phủ về
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà
nước đối với công ty nhà nước, Hà Nội, 2006.
5. Kiểm toán Nhà nước, Báo cáo kiểm toán năm 2010
về niên độ ngân sách năm 2009 (Tài liệu họp báo
ngày 30 tháng 8 năm 2011), Hà Nội, 2011.
6. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 224/2006/
QĐ-TTg ngày 06-10-2006 về việc ban hành Quy chế
giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước, Hà Nội, 2006.
7. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 169/2007/
QĐ-TTg ngày 08-11-2007 về việc ban hành Quy chế
giám sát đối với doanh nghiệp nhà nước kinh doanh
thua lỗ hoạt động không có hiệu quả, Hà Nội, 2007.
8. Quốc hội (2003), Luật Doanh nghiệp nhà nước số
14/2003/QH11 ngày 10/12/2003, Hà Nội.
9. Quốc hội (2002), Luật Ngân sách nhà nước số
01/2002/QH12 ngày 16/12/2002, Hà Nội.
10. Quốc hội, Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày
26-11-2003, Hà Nội, 2003.
11. Quốc hội, Luật Thanh tra số 22/2004/QH11 ngày
15-6-2004, Hà Nội, 2004.
12. Quốc hội, Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29-
11-2005, Hà Nội, 2005.
13. Quốc hội, Luật Kế toán số 03/2003/QH11 ngày
17-6-2003, Hà Nội, 2003.
14. Quốc hội, Luật Kiểm toán nhà nước số 37/2005/
QH11 ngày 14-6-2005, Hà Nội, 2005.
15. Quốc hội, Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày
29-11-2005, Hà Nội, 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_hieu_qua_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_nha_nuo.pdf