Mở đầu: Vi phẫu ngày càng được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực y khoa: khâu nối chi sau chấn
thương trong chấn thương chỉnh hình, nối các mạch máu của các vạt tự do trong phẫu thuật tạo hình, phục hồi
ống dẫn trứng hoặc ống dẫn tinh trong sản khoa cũng như các lĩnh vực khác như ngoại thần kinh,ngoại niệu,
nhãn khoa, tai mũi họng Do đó, việc thành lập các đơn vị vi phẫu, cả về thực nghiệm cũng như lâm sàng ngày
càng cấp thiết. Kĩ thuật vi phẫu cần được huấn luyện thành thạo tại các trung tâm thực nghiệm trước khi tiến
hành trên bệnh nhân. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa có nhiểu các trung tâm thực nghiệm vi phẫu để hỗ trợ các
nhà ngoại khoa hoàn thiện kĩ năng vi phẫu.
Mục tiêu: Đưa ra một số hướng dẫn đề nghị để xây dựng mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu
thuật từ mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm đào tạo và huấn luyện các kĩ năng căn bản.
Đối tượng – Phương pháp: Thống kê mô tả hoạt động các lớp thực nghiệm vi phẫu căn bản (chuần bị
phòng thí nghiệm, kính, dụng cụ cần thiết, kĩ thuật khâu nối vi phẫu, đánh giá học viên).
Kết quả: Chúng tôi đã đào tạo được tất cả 175 học viên: 45 học viên đào tạo 40 giờ và 130 học viên đào tạo
20 giờ. Số học viên nối thông sau 30 phút 37/45 (82,22%) học viên đào tạo trong 40 giờ và 103/130 (79,23%.)
đào tạo trong 20 giờ. Mô hình các lớp thực nghiệm vi phẫu cơ bản với chi phí không quá tốn kém và không yêu
cầu nhiều dụng cụ phức tạp, chỉ cẩn kính hiển vi và một số dụng cụ vi phẫu. Do đó,việc triển khai các phòng thí
nghiệm thực nghiệm vi phẫu có thể thực hiện ở các trung tâm thực nghiệm của các trường đại học và các đơn vi
phẫu ở bệnh viện.Nhận thức và kĩ thuật vi phẫu là các nhân tố quyết định cần được hoàn thiện trước khi bước
vào phòng mổ bằng cách luyện tập một cách thường xuyên tại các phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu
6 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 532 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Một số kinh nghiệm trong xây dựng chương trình thực nghiệm vi phẫu thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ 317
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH
THỰC NGHIỆM VI PHẪU THUẬT
Cái Hữu Ngọc Thảo Trang*, Nguyễn Anh Tuấn*
TÓM TẮT
Mở đầu: Vi phẫu ngày càng được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực y khoa: khâu nối chi sau chấn
thương trong chấn thương chỉnh hình, nối các mạch máu của các vạt tự do trong phẫu thuật tạo hình, phục hồi
ống dẫn trứng hoặc ống dẫn tinh trong sản khoa cũng như các lĩnh vực khác như ngoại thần kinh,ngoại niệu,
nhãn khoa, tai mũi họng Do đó, việc thành lập các đơn vị vi phẫu, cả về thực nghiệm cũng như lâm sàng ngày
càng cấp thiết. Kĩ thuật vi phẫu cần được huấn luyện thành thạo tại các trung tâm thực nghiệm trước khi tiến
hành trên bệnh nhân. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa có nhiểu các trung tâm thực nghiệm vi phẫu để hỗ trợ các
nhà ngoại khoa hoàn thiện kĩ năng vi phẫu.
Mục tiêu: Đưa ra một số hướng dẫn đề nghị để xây dựng mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu
thuật từ mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm đào tạo và huấn luyện các kĩ năng căn bản.
Đối tượng – Phương pháp: Thống kê mô tả hoạt động các lớp thực nghiệm vi phẫu căn bản (chuần bị
phòng thí nghiệm, kính, dụng cụ cần thiết, kĩ thuật khâu nối vi phẫu, đánh giá học viên).
Kết quả: Chúng tôi đã đào tạo được tất cả 175 học viên: 45 học viên đào tạo 40 giờ và 130 học viên đào tạo
20 giờ. Số học viên nối thông sau 30 phút 37/45 (82,22%) học viên đào tạo trong 40 giờ và 103/130 (79,23%.)
đào tạo trong 20 giờ. Mô hình các lớp thực nghiệm vi phẫu cơ bản với chi phí không quá tốn kém và không yêu
cầu nhiều dụng cụ phức tạp, chỉ cẩn kính hiển vi và một số dụng cụ vi phẫu. Do đó,việc triển khai các phòng thí
nghiệm thực nghiệm vi phẫu có thể thực hiện ở các trung tâm thực nghiệm của các trường đại học và các đơn vi
phẫu ở bệnh viện.Nhận thức và kĩ thuật vi phẫu là các nhân tố quyết định cần được hoàn thiện trước khi bước
vào phòng mổ bằng cách luyện tập một cách thường xuyên tại các phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu.
Kết luận: Ngày nay, các đơn vị vi phẫu ngày càng đóng vai trò quan trọng cả trong thực nghiệm và lâm
sàng. Mô hình phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu đào tạo các kĩ năng vi phẫu cơ bản như chúng tôi mô tả có
thể dễ dàng triển khai ở các các trung tâm thực nghiệm của các trường đại học và các đơn vi phẫu ở bệnh viện.
Từ khoá: vi phẫu cơ bản, phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu, vi phẫu, đào tạo
ABSTRACT
SUGGESTED GUIDE FOR SETTING UP AN EXPERIMENTAL MICROSURGICAL LABORATORY
Cai Huu Ngoc Thao Trang, Nguyen Anh Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 317 ‐ 322
The title of research: Nowadays, microsurgery is commonly used for the re‐implantation of limbs or fingers
after traumatic amputation, to free flaps in reconstructive plastic surgery, for the rechanneling of vas deferens
and uterine tubes, and in specialized fields such as neurosurgery, urologists, ophthalmology, orthopedics and oto‐
rhino‐laryngology. Thus, the organization of a microsurgery unit, both in experimental and clinical level, is very
important. The microsurgical skills should be first mastered in the lab before being employed in the clinical
practice. However, in Vietnam, there is actually no Experimental Microsurgery Center that can support the
surgeons to improve microsurgical skills. So, we apply Experimental Microsurgery Center with the first aim:
* Bộ môn PT TH‐TM ĐHYD TP. HCM và khoa TH‐TM BV ĐHYD
Tác giả liên lạc: BS Cái Hữu Ngọc Thảo Trang ĐT: 0908 947 817 Email: thaotrangms@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 318
training the basic skill of microsurgery.
Background –Objectives: The goals of this article is to provide suggested guide for setting up a
Experimental Microsurgical laboratory and to review basic microsurgical skills using synthetic and animal
models.
Method: Describe logistically the Based Microsurgery training courses (Set up an Microsurgery Lab,
Suture Technique, and Evaluation Microsurgical Skills) at Experimental Surgery Center of Ho Chi Minh City
University of Medicine and Pharmacy from2009 to 2013
Results: We have 175 trainees : 45 trainees of basic course 40 hours and 130 trainees of basic course 20
hours. Evaluation the patency of microvascular anastomosis at 30minutes: 37/45 (82.22%) and 103/130
(79.23%) well done. Establishing an Experimental Microsurgical Laboratory needs not be expensive and does not
require a lot of elaborate equipment beyond an adequate operating microscope and select microsurgical
instruments. So the microsurgical lab has to be applied at the Experimental Surgery Centers of University and in
Microsurgery Units of the hospitals. Cognitive and technical competency in microsurgery, that are essential keys
before entering the operating room are established through repeated practice in anExperimental Microsurgical
Laboratory.
Conclusion: Nowadays, Microsurgery Unit, both in experimental and clinical level, plays an important
role. The model Experimental Microsurgical Laboratory that we describe could be implemented easily in the
Experimental Surgery Centers of University and Microsurgery Units of the hospitals.
Keywords: Microsurgical, Microsurgical Experimental Laboratory, Microsurgery, training
MỞ ĐẦU
Vi phẫu thuật (VPT), là thuật ngữ chỉ các
phẫu thuật (PT) đòi hỏi phải sử dụng các loại
kính phóng đại (kính lúp, kính hiển vi phẫu
thuật) và các dụng cụ nhỏ, tinh vi để thực hiện
phẫu thuật trên các cấu trúc giải phẫu nhỏ (kích
thước khoảng 1mm): thần kinh, mạch máu
Kỉ nguyên vi phẫu bắt đầu bằng kĩ thuật
“triangulation”của A.Carrel vào năm 1902. Sau
đó là hàng loạt các bước tiến: Nylen bắt đầu
những phẫu tích đòi hỏi sự chính xác cao độ
trên thỏ năm1921(2), Jacobson và Suarez khâu nối
mạch máu bằng kính hiển vi năm1960, Chen
khâu nối cánh tay đầu tiên 1963, Tamai và
Komatsu nối thành công ngón tay cái năm 1968
và Cobbet nối thành công ngón chân cái năm
1969(3). Hiện nay, VPT còn chú trọng hướng phát
triển các loại vạt nhằm mục đích tái tạo các
khuyết hổng khác nhau của cơ thể.
Công nghệ khoa học phát triển hỗ trợ rất
nhiều cho các phẫu thuật viên vi phẫu nhưng kĩ
năng bóc tách cùng kĩ năng khâu nối của phẫu
thuật viên vẫn giữ vai trò quyết định sự thành
công của VPT.Nghĩa là muốn VPT thành công,
các phẫu thuật viên VP phải thường xuyên
luyện tập để nhuần nhuyễn kĩ năng của mình.
Mặt khác, VPT ngày càng được phổ biến trong
nhiều lĩnh vực phẫu thuật khác nhau. Do vậy,
nhu cầu thành lập các phòng thí nghiệm thực
nghiệm vi phẫu càng được đạt ra.
Việt Nam hiện tại phẫu thuật viên VPT vẫn
còn thiếu và chưa có các trung tâm đào tạo cũng
như huấn luyện kĩ năng vi phẫu một cách chính
quy. Chúng tôi mô tả thống kê lại các lớp tập
huấn thực nghiệm vi phẫu căn bản chúng tôi đã
thực hiện tại Trung tâm thực nghiệm ĐH Y
Dược TP HCM nhằm đưa ra một mô hình
phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu có thể
phổ biến dễ dàng tại các trung tâm thực nghiệm
trường đai học và các đơn vi VP các bệnh viện
nhằm tạo điều kiện cho các phẫu thuật viên có
thể luyện tập kĩ năng vi phẫu thường xuyên.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Phòng thí nghiệm thực nghiệm vi phẫu
Kính hiển vi – Kính lúp
Chúng tôi có 6 kính hiển vi vi phẫuvới độ
phóng đại x6 ‐ x16 (Operation Microcope):
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ 319
China 106132; Takaci OM ‐ 05 (Japan); Mega ‐ L ‐
0970 (Japan); Seto ‐ SEL ‐ 0990 (Japan); Phaco
Leica ‐ M ‐ 690 (Germany); và OPTO –
OPTIKON.
Kính hiển vi của người hướng dẫn có nối với
màn hình ti vi bên ngoài để học viên có thể dễ
dàng theo dõi các thao tác của người hướng dẫn.
Chúng tôi bố trí làm việc theo nhóm. Mỗi
nhóm gồm 2 học viên. Khi thực hành, lần lượt
từng học viên sẽ đóng vai trò mổ chính‐ sử dụng
kính hiển vi để bóc tách và khâu nối, học viên
còn lại mang kính lúp x3.5 phụ mổ.
Hình 1: Kính hiển vi – Kính lúp – Dụng cụ vi phẫu
Dụng cụ
Mỗi bộ dụng cụ cho mỗi nhóm học viên
gồm: banh tự động, cán dao số 7, kéo Westcott
cong, kép vi phẫu thẳng, kéo Metzenbaunm, kéo
Steven, nhíp cong, nhíp thẳng, nhíp không mấu
cong, nhíp không mấu thẳng, nhíp không mấu,
nhíp có mấu, Bulldog cong, Bulldog thẳng, kẹp
mang kim thẳng, kẹp mang kim cong, kẹp
Hartman thẳng, kẹp Hartman cong.
Các dụng cụ vi phẫu cần đươc sử dụng và
bảo quản một cách kĩ lưỡng. Sau khi sử dụng,
các dụng cụ vi phẫu cần được ngâm, lau rửa nhẹ
nhàng, để khô, bọc đầu bảo vệ bằng bọc nhựa.
Các dụng cụ hổ trợ: lưỡi dao, ống tiêm, kim
luồn, gạc, băng keo, nón, mask, bàn mổ cho
chuột.
Heparin pha nước muối sinh lí theo tỉ lệ
5000UI/500ml, gây mê chuột bằng Ketamine
Hydroclorid 10ml với liều 0.25ml/100g chuột,
gây tê tại chỗ bổ sung bằng Lidocaine 2%
40mg/2ml
Môi trường thực nghiệm
Cần tạo ra sự thoải mái tuyệt đối cho học
viên vì để có được các thao tác vi phẫu chuẩn
xác cần sự kiên nhẫn trong thời gian dài cũng
như sự luyện tập thường xuyên.
Học viên phải sử dụng thành thạo kính hiển
vi: chọn độ phóng đại phù hợp cho từng thao tác
để mắt nhìn rõ nhất.
Kĩ thuật khâu nối
Độ khó của kĩ thuật vi phẫu căn bản được
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 320
nâng lên từng bước như sau:
Ngày 1: thực hiên các thao tác khâu trên gant
với chỉ 7.0.
Ngày 2: thực hiện các thao tác khâu nối trên
cuống rốn người với chỉ 8.0.
Ngày 3: thực hiện các thao tác khâu nối trên
động mạch cảnh chuột với chỉ 9.0.
Ngày 4: thực hiện các thao tác khâu nối trên
động mạch cảnh chuột với chỉ 10.0.
Ngày 5: thực hiện các thao tác khâu nối trên
động mạch cảnh chuột với chỉ 10.0 (đánh giá
cuối đợt huấn luyện).
Sau khi bọc lộ động mạch cảnh chuột, chuẩn
bị miệng nối kẹp giữ bằng Bulldog, học viên sẽ
tiến hành khâu nối tận ‐ tận từ 6‐8 mũi khâu.
Hai mũi khâu đầu tiên có thể theo phân bố ỏ vị
trí 0o‐180 o hoặc 0o‐1200.
Chúng tôi tổ chức được 2 mô hình lớp vi
phẫu căn bản gồm: lớp vi phẫu căn bản định kì
hàng năm 40 giờ cho tất cả các học viên trong
nước và nước ngoài, chứng chỉ vi phẫu căn bản
cho lớp định hướng tạo hình thẩm mỹ 20 giờ.
Đánh giá học viên
Kĩ năng của học viên được đánh giá thông
qua thao tác trong suốt quá trình học và kết quả
nối thông nối cuối cùng. Mỗi học viên nộp bài
thu hoạch về khoá huấn luyện.
Đánh giá sự thông nối của miệng nối ngay
sau khi nối và 30 phút sau khi nối xong.
KẾT QUẢ
Chúng tôi có 175 học viên đã tham dự lớp
thực nghiệm vi phẫu căn bản với số dụng cụ
tiêu hao như sau:
Bảng 1: Thống kê vật tư tiêu hao trên mỗi học viên
Vật tư Đơn vị Tiêu hao cho 45 học viên 40 giờ
Trung bình 1 học
viên 40 giờ
Tiêu hao cho 130
học viên 20 giờ
Trung bình 1
học viên 20 giờ
Chỉ premilene 7-0 sợi 51 1,13 172 1,32
Chỉ premilene 8-0 sợi 91 2,02 180 1,38
Chỉ premilene 9-0 sợi 345 7,67 410 3,15
Chỉ premilene 10-0 sợi 60 1,33 201 1,55
Khâu da chỉ soir sợi 93 2,07 120 0,92
Lưỡi dao cái 137 3,04 265 2,04
Ống tiêm ống 395 8,78 590 4,54
Kim luồn cây 175 3,89 482 3,71
Gant hộp (50 đôi/ hộp) 50 1,11 45 0,35
Gạc Gói (05 miếng/ gói) 125 2,78 350 2,69
Băng keo cuộn (12 cuộn/ hộp) 31 0,69 59 0,45
Nước muối chai 14 0,31 28 0,22
Thuốc Heparin lọ 6 0,13 10 0,08
Thuốc Ketamin lọ 42 0,93 62 0,48
Thuốc Lidocain hộp 100 ống/ hộp) 4 0,09 7 0,05
Nón cái 140 3,11 307 2,36
Mask hộp (50 cái/ hộp) 14 0,31 18 0,14
Dung dịch sát khuẩn chai 8 0,18 13 0,10
Chuột con 221 4,91 290 2,23
Số học viên nối thông khi đánh giá 37/45 học
viên đào tạo trong 40 chiếm 82,22% và 103/130
chiếm 79,23%.
BÀN LUẬN
Qua thực tế triển khai mô hình thực
nghiệm vi phẫu tại Trung tâm thực nghiệm
ĐH Y Dược TP HCM 2009 ‐2013 chúng tôi
nhận thấy rằng mô hình thực nghiệm vi phẫu
triển khai để đào tạo kĩ năng vi phẫu căn bản
không quá tốn kém và có thể triển khai ở các
trung tâm thực nghiệm của các trường đại học
cũng như các đơn vị vi phẫu tại các bệnh viện
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Tạo Hình Thẩm Mỹ 321
để tạo điều kiện cho các phẫu thuật viên vi
phẫu thường xuyên tập luyện.
Các dụng cụ vi phẫu và các loại vật tư đơn
giản, phổ biến chúng tôi sử dụng trong mô hình
khá tương đồng với các nước trên thế giới như
Akanksha Mehta and Philip S Li và cộng sự(7),
Diogo Almeida Lima và cộng sự(5), hay Martins
PNA, Montero EFS và cộng sự(6) đã tổng kết.
Theo Leung CC và cộng sự(4) tổng kết về mô
hình đào tạo và huấn luyện vi phẫu toàn cầu để
đưa ra một mẫu mô hình thống nhất chung toàn
thế giới dựa trên cơ sở dữ liệu của PubMed,
MEDLINE (Ovid) và EMBASE
(Ovid) được công bố trong vòng 20 năm qua
(1992‐2012) phối hợp với thông tin Internet và
khảo sát trên giảng giảng viên và học viên tham
gia vào mô hình đảo tạo vi phẫu khắp 6 châu lục
với 27 trung tâm và 39 hoá học, có 2 loại mô
hình đào tạo VPT. Loại A, đào tạo vi phẫu căn
bản trong 20 – 40 giờ, học viên sẽ thực hành làm
quen bước đầu trên các loại mô hình nhân tạo
như găng tay, silicone dạng ống hoặc dạng tấm.
Sau đó, họ viên được khâu nối các động mạch
lớn hơn 1mm như động mạch chủ và động
mạch cảnh của chuột. Ngoài ra các loại mô động
vật cũng có thể được sử dụng: cổ gà, động mạch
cảnh chuột bảo quản lạnh hay động mạch vành
của heo. Loại động vật sống thường sử dụng để
thực nghiệm thường gặp nhất là chuột chiếm
90%. Hầu hết các khoá huấn luyện đào tạo kĩ
năng nối tận – tận cho học viên, ngoài ra có thể
bố sung thêm các khái niệm nối tận ‐ bên, ghép
tĩnh mạch, nối thần kinh ngoại biên cũng như
chuyển vạt.
Trong mô hình mô tả, chúng tôi dùng găng
tay, cuống rốn người và chuột 250 – 350g để là
phương tiện đào tạo cho học viên và huấn luyện
chủ yếu kĩ năng nối tận – tận. Khi thực hiện
khâu nối trên gant bằng Premilene 7.0, học viên
bước đầu làm quen với kính và các dụng cụ vi
phẫu. Với kính hiển vi vi phẫu, học viên học
cách tự chỉnh kính các độ phóng đại khác nhau
để thuận tiện nhất trong các bước thao tác. Học
viên trong vai trò người phụ sẽ làm quen với
kính lúp với độ phóng đại x 3.5. Các đường rạch
trên gant gồm các đường ngang và đường chéo
để làm quen với thao tác trên dụng cụ vi phẫu
và chỉ. Đa số các học viên gặp nhiều khó khăn
do chưa quen với dụng cụ vi phẫu và kính hiển
vi cũng như kính lúp. Các thao tác bằng tay khi
sử dụng dụng cụ vi phẫu không đúng dễ mỏi
tay và thao tác không chính xác. Đến buổi thực
tập thứ 2 trên cuống rốn: tách độnh mạch cuống
rốn và nối tận tận. Học viên đã quen dần với các
dụng cụ vi phẫu nên thao tác gọn gàng hơn
chúng tôi cho học viện dùng chỉ nhỏ hơn
Premilene 8.0. Buổi thực tập thứ 3 và thứ 4 tiến
hành bóc tách và khâu nối mạch máu trên chuột.
Học viên được hướng dẫn gây mê bắng
Ketamine, gây tê tại chỗ bổ sung bằng Lidocaine
2% và bóc tách độnh mạch cảnh trên chỉ
Premilene 9.0 và 10.0. Khi sủ dụng Premilene 9.0
và 10.0, học viên không chú ý dễ làm mất chỉ
khâu. Các thao tác của học viên trong quá trình
bóc tách nếu không chú ý có thể đề lên bụng của
chuột trong thời gian dài có thể làm cho chuột tử
vong trước khi khâu nối xong mạch máu, sẽ khó
đánh giá kết quả thông nối.
Theo kết quả đánh giá cuối cùng thì tỉ lệ nối
thông của các học viên theo khoá học 40 giờ
(82,22%) cao hơn các các học viên theo khoá học
20 giờ (79,23%). Cần có nhiều nghiên cứu hơn để
chứng minh thời gian luyện tập ảnh hưởng rõ
rệt lên kĩ năng vi phẫu của phẫu thuật viên.
Với mô hình đào tạo vi phẫu nâng cao, thời
gian yêu cầu từ 12‐1950 giờ, linh động theo học
viên. Nội dung của khoá học vẫn là tiếp tục
nhuần nhuyễn các kĩ năng vi phẫu căn bản và
thực hành thêm một số kĩ năng nâng cao như
nối tai thỏ, chuyển vạt bẹn với bó mạch thượng
vị nông hoặc bó mạch đùi làm nơi nhận, và các
kĩ thuật vi phẫu chuyên biệt cho nam khoa, sản
khoa hay ngoại thần kinh.
Các lớp đào tạo thực nghiệm vi phẫu có 3
cách đánh giá: một là đánh giá không chính thức
chủ yếu dựa vào cảm giác chủ quan của giảng
viên về học viên, hai là đánh giá thông nối sau
30 phút đến 2 giờ và ba là đánh giá tắc muộn sau
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 322
12‐24 giờ. Hơn 75% các mô hỉnh huấn luyện vi
phẫu đơn giản type A có đánh giá không chính
thức. Với mô hình của chúng tôi, kĩ năng của
học viên được đánh giá thông qua thao tác trong
suốt quá trình học và kết quả nối thông nối cuối
cùng. Mỗi học viên nộp bài thu hoạch về khoá
huấn luyện. Đánh giá sự thông nối của miệng
nối ngay sau khi nối và 30 phút sau khi nối
xong.
Hiện nay, chúng ta có thế đánh giá chính
thức kĩ năng của học viên qua bảng điểm thống
nhất toàn cầu global rating scale (GRS), dựa trên
kĩ thuật thực hiện vả thới gian thực hiện.
Với các mô hình nhân tạo găng tay, silicone
dạng ống hoặc dạng tấm có lợi điểm là dễ vận
chuyển nhưng lại bị giới hạn vể thời gian sử
dụng và mức độ thực tế khi thực tập. Với mô
hình động vật sống là chuột, học viên sẽ có cản
nhận như trong một cuộc mổ thật sự và có thể
kiểm tra khà năng thông nối vì có hiện tượng
đông cầm máu tương đối giống như trê người.
Tuy nhiên vấn đề sử dụng chuột sẽ phải đối mặt
với các vấn đề đạo đức Russell.
Burch 3 R của “Replacement, Refinement
and Reduction” ‐ ʺ thay thế, sàng lọc và giảm
thiểuʺ việc sử dụng các mô hình động vật sống
trong các nghiên cứu(1). Hiện, chuột chúng tôi
thực hiện trong mô hình có thông qua hội đồng
của nhà trường và tất cả những con chuột sau
thí nghiệm đều được khâu da và xử lí tôn trọng
và cẩn thận.
Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy rằng cần
hoàn thiện hơn nữa mô hình thực nghiệm vi
phẫu trên để nâng cao hơn nữa chất lượng trong
cũng như sau quá trình đào tạo. Chúng tôi sẽ
hoan thiện sớm giáo trình thực nghiệm vi phẫu
gồm bài giảng và video để học viên có thể thuận
tiện nắm bắt kĩ thuật nhanh hơn, tốn ít thời gian
hơn. Đồng thời với giáo trình vi phẫu căn bản
như vậy có thể hỗ trợ được học viên từ xa khi tự
luyện tập một mình sau khoá huấn luyện kết
thúc. Chúng tôi cũng đã lên kế hoạch để tổ chức
những lớp huấn luyện các lớp vi phẫu nâng cao.
KẾT LUẬN
Xây dựng mô hình thực nghiệm vi phẫu
phuc vụ đào tạo các kĩ năng vi phẫu căn bản cho
các nhà ngoại khoa mang tính khả thi cao:
không quá tốn kém và có hiệu quả rõ rệt, nên
được triển khai tại các trung tâm phẫu thuật
thực nghiệm của đại học Y khoa vá các đơn vị vi
phẫu của các bệnh viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baumans V (2004). Use of animals in experimental research:
an ethical dilemma? Gene Ther.11:64‐66.
2. Ferreira MC (2005). Microcirurgia reconstrutiva: a história da
microcirurgia no Brasil. In: Bijos P, Zumiotti AV, Rocha JR,
Ferreira MC, eds. Microcirurgia reconstrutiva. São Paulo:
Atheneu;516.
3. Galvão MSL(1985).The role of reconstructive microsurgery in
cancer surgery.In: Fifth Congress of the European Section of
the International Confederation for Plastic and Reconstructive
Surgery.Stockholm, Sweden.
4. Leung cc et al (2013).Towards a Global Understanding and
Standardisation of Education and Training in Microsurgery.
Arch Plast 40:304‐311.
5. Lima DA et al.(2012).Laboratory training program in
microsurgery at the National Cancer Institute. Rev Bras Cir
Plást 27(1):141‐9.
6. Martins PNA, Montero EFS (2006).Organization of a
microsurgery laboratory Acta Cirúrgica Brasileira ‐21 (3):187‐
189.
7. Mehta A, Li PS (2013). Male infertility microsurgical training.
Asian Journal of Andrology 15(1): 61–66.
Ngày nhận bài báo: 14/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 317_2032.pdf