Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trường Cao đẳng Sư
phạm trong thời gian này là hết sức cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục - đào tạo và xu thế của thời đại. Bởi lẽ, đội ngũ nhà giáo và cán
bộ giáo dục đào tạo hiện nay còn tồn tại những bất cập về số lượng, cơ cấu và chất
lượng mà giáo dục giáo dục và đào tạo là nhân tố quan trọng nhất trong bốn trụ cột
chính của nền kinh tế tri thức. Chất lượng nguồn nhân lực, tri thức con người phải
thông qua giáo dục mới có thể được cải thiện, phát triển và có giá trị. Trên cơ sở phát
triển giáo dục và đào tạo là động lực của sự phát triển kinh tế tri thức, là vấn đề có
ý nghĩa sống còn trước xu thế toàn cầu hoá. Để thực hiện thành công khâu đột phá
chiến lược “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao” trong giai đoạn mới Việt Nam không thể đứng ngoài xu hướng này và dĩ nhiên
các trường Sư phạm lại phải gánh một trọng trách vô cùng lớn đó là tạo ra nguồn tài
nguyên nhân lực chất lượng cao để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước ngày càng phồn vinh và thịnh vượng. Do đó, phải nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên ở các trường Sư phạm ở công tác quản lý, phát triển đội ngũ, tính dân chủ
và xây dựng cáccchương trình, hành động cụ thể nhằm thực hiện tốt chiến lược giáo
dục và đào tạo của nhà trường đồng thời thực hiện xã hội hóa giáo dục và hội nhập
quốc tế về giáo dục và đào tạo.
6 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 13/05/2022 | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trường cao đẳng sư phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu hội thảo khoa học 291
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
TS. Nguyễn Thủy Tiên
Trường CĐSP Thừa Thiên Huế
Tóm tắt: Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các trường Cao đẳng Sư
phạm trong thời gian này là hết sức cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục - đào tạo và xu thế của thời đại. Bởi lẽ, đội ngũ nhà giáo và cán
bộ giáo dục đào tạo hiện nay còn tồn tại những bất cập về số lượng, cơ cấu và chất
lượng mà giáo dục giáo dục và đào tạo là nhân tố quan trọng nhất trong bốn trụ cột
chính của nền kinh tế tri thức. Chất lượng nguồn nhân lực, tri thức con người phải
thông qua giáo dục mới có thể được cải thiện, phát triển và có giá trị. Trên cơ sở phát
triển giáo dục và đào tạo là động lực của sự phát triển kinh tế tri thức, là vấn đề có
ý nghĩa sống còn trước xu thế toàn cầu hoá. Để thực hiện thành công khâu đột phá
chiến lược “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao” trong giai đoạn mới Việt Nam không thể đứng ngoài xu hướng này và dĩ nhiên
các trường Sư phạm lại phải gánh một trọng trách vô cùng lớn đó là tạo ra nguồn tài
nguyên nhân lực chất lượng cao để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước ngày càng phồn vinh và thịnh vượng. Do đó, phải nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên ở các trường Sư phạm ở công tác quản lý, phát triển đội ngũ, tính dân chủ
và xây dựng cáccchương trình, hành động cụ thể nhằm thực hiện tốt chiến lược giáo
dục và đào tạo của nhà trường đồng thời thực hiện xã hội hóa giáo dục và hội nhập
quốc tế về giáo dục và đào tạo.
1.1. Đặt vấn đề
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 ở nước ta, việc
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được xem là vấn đề cốt lõi, là một
trong ba đột phá quan trọng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Chính vì vậy. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định một trong các nhiệm vụ trọng tâm là: “Tiếp
tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng đồng bộ) cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng” [5, tr.218].
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là yêu cầu khách quan được bắt
nguồn từ thực tiễn của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách
mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh, đặc biệt là cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động đến các nền kinh tế thế giới. Đổi mới, nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo là quá trình cải biến sâu sắc toàn diện,
đồng bộ, tích cực, khẩn trương, nhưng phải có lộ trình phù hợp. Trong quá trình cải
biến đó, bên cạnh những thuận lợi và thời cơ cũng có không ít khó khăn và thách thức.
Kỷ yếu hội thảo khoa học292
1.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trong
thời gian tới
Một trong những vấn đề cấp bách mà chúng ta cần quan tâm hiện nay đó là chất
lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Thực tế, đội ngũ này hiện nay còn
tồn tại những bất cập về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Theo số liệu thống kê, ước
tính đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nước ta hiện nay khoảng 1,3 triệu
người. Tình trạng thừa, thiếu nhà giáo vẫn còn cục bộ ở một số cấp học; kỹ năng sư
phạm của một bộ phận nhà giáo còn yếu, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới. Tỷ lệ
nhà giáo có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ và tin học còn rất thấp. Việc triển
khai đánh giá nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo chuẩn nghề nghiệp, thực hiện
bồi dưỡng thường xuyên chưa phản ánh đúng thực chất. Một số nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục thiếu tâm huyết, vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Thêm vào đó, năng
lực thực tiễn của một số bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa tương xứng
với bằng cấp được đào tạo, chưa bắt kịp với yêu cầu của đổi mới với xu thế của thời
đại. Chất lượng đào tạo của các trường sư phạm và trường cán bộ quản lý giáo dục còn
nhiều hạn chế. Theo Bộ Giáo dục và Ðào tạo, tính đến năm 2017, cả nước có cơ sở
đào tạo giáo viên, gồm: 58 trường đại học, 57 trường cao đẳng, 40 trường trung cấp có
ngành đào tạo giáo viên, trong đó có 14 trường đại học sư phạm, 33 trường cao đẳng
sư phạm và 02 trường trung cấp sư phạm. Mặc dù vẫn còn 49 trường sư phạm nhưng
trong thực tiễn gần như tất cả 155 cơ sở đào tạo giáo viên ở nước ta ngoài đào tạo giáo
viên còn đào tạo cả các ngành khác. Gần 3 thập kỷ qua Đảng ta luôn trăn trở và tìm
cách để phát triển giáo dục và đào tạo, từ Hội nghị Trung ương 4 khóa VII mở đầu cho
giai đoạn giáo dục nước ta phục hồi và “có bước phát triển mới” cho đến Nghị quyết
Trung ương 2 (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000; Nghị quyết 29 - NQ/TW
của Đảng. Xuất phát từ tình hình thực tế của nền giáo dục Việt Nam trong thời gian
qua Đảng ta nhận thức phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu
then chốt của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Xây dựng và phát triển
đội ngũ nhà giáo và quản lý giáo dục đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn
về trình độ đào tạo và chuẩn nghề nghiệp. “Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo
theo từng cấp học. Tiến tới tất cả giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng
viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư
phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên và phải được đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản lý giáo dục phải qua đào tạo về nghiệp
vụ quản lý” [4, tr.136 - 137].
Trong những năm tới hướng phát triển giáo dục sẽ là nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Phát triển giáo dục
phải gắn với các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, theo hướng mở, chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, tăng quyền
tự chủ đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả
Kỷ yếu hội thảo khoa học 293
nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ.
Giáo dục và đào tạo là một hoạt động mang tính xã hội có mục đích; là quá trình
truyền thụ tri thức của thế hệ trước cho thế hệ sau nhằm trang bị cho người học những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thông qua một hệ thống giáo dục từ mầm non cho đến đại
học. Giáo dục và đào tạo là nhân tố quan trọng nhất trong bốn trụ cột chính của nền
kinh tế tri thức. Chất lượng nguồn nhân lực, tri thức con người phải thông qua giáo
dục mới có thể được cải thiện, phát triển và có giá trị. Bởi lẽ nâng cao dân trí, phát
huy nguồn lực con người Việt Nam trên cơ sở phát triển giáo dục và đào tạo là động
lực của sự phát triển kinh tế tri thức, là vấn đề có ý nghĩa sống còn trước xu thế toàn
cầu hoá. Để thực hiện thành công khâu đột phá chiến lược “phát triển nhanh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” trong giai đoạn mới Việt Nam không
thể đứng ngoài xu hướng này và dĩ nhiên các trường Sư phạm lại phải gánh một trọng
trách vô cùng lớn đó là tạo ra nguồn tài nguyên nhân lực chất lượng cao để góp phần
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày càng phồn vinh và thịnh vượng.
Trong phạm vi bài viết này, tôi xin được đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ giảng viên ở các trường Cao đẳng Sư phạm trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, đổi mới công tác quản lý giáo dục và đào tạo.
Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất;
tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng
quản lý chất lượng. Các cơ sở giáo dục cần phải xác định rõ chức năng, trách nhiệm
của mình trong công tác quản lý. Tăng tính chủ động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo trong việc giám sát, kiểm tra và kiên quyết xử
lý các trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật và các điều kiện bảo đảm chất
lượng đào tạo. Tăng cường phân cấp quản lý một cách hợp lý. Các cơ quan quản lý
nhà nước và các cơ sở giáo dục - đào tạo cần thực hiện đúng chức năng của mình. Các
trường Cao đẳng cần có chế độ đãi ngộ người tài một cách công khai, minh bạch thì
mới thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của nhà
trường và phù hợp với xu thế của thời đại.
Thứ hai, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
Các trường Cao đẳng Sư phạm phải quan tâm đến vấn đề xây dựng quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Suy đến cùng,
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là yếu tố quyết định sự thành công của
sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cần có những
chính sách đãi ngộ tốt, từ đó tạo động lực cho họ tích cực rèn luyện phẩm chất, nâng
cao năng lực chuyên môn, nhất là những người làm việc ở vùng sâu vùng xa, biên
giới, hải đảo.
Cần có chế độ phúc lợi tương ứng với hiệu quả của công việc. Nhà trường cần
phải tạo điều kiện để nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục học tập, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và thăng tiến trong công việc. Đồng thời, phải chú trọng đào
tạo các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực giáo dục. Đây là giải pháp then chốt, thậm
Kỷ yếu hội thảo khoa học294
chí là yếu tố quyết định sự thành bại của đổi mới giáo dục, bởi nhà giáo chính là lực
lượng quyết định nhất trong việc thực hiện đổi mới giáo dục. Môi trường sư phạm
cũng cần phải trong sạch. Vì vậy, phải luôn tăng cường sự đoàn kết nội bộ, phải góp
ý chân thành trên tinh thần xây dựng giúp nhau cùng tiến bộ và hoàn thành nhiệm vụ;
tránh chủ nghĩa cá nhân, hẹp hòi, ích kỷ. Phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm của
từng cá nhân và tính tập trung dân chủ với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ. Các cơ sở giáo dục cần đẩy mạnh và tiến tới hoàn thành công tác
chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Thực hiện tốt công tác thăng
hạng chức danh nghề nghiệp cho giáo viên các cấp bậc học; xây dựng kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý giáo dục, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nâng
chuẩn về chuyên môn cho các đối tượng trong nguồn quy hoạch cán bộ quản lý của
ngành. phải đặc biệt coi trọng việc hình thành và phát triển đội ngũ giáo viên đủ về
số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ đào tạo và chuẩn nghề nghiệp;
mẫu mực, chuyên môn giỏi, phong cách tốt, tâm huyết và trách nhiệm với nghề. Đối
với cán bộ quản lý giáo dục, phải lựa chọn được những người vừa công tâm, vừa có
kiến thức và tinh thần trách nhiệm cao, những yếu tố tạo nên bản lĩnh của người cán
bộ quản lý.
Các cơ sở giáo dục cần có chính sách đặc biệt thu hút người giỏi vào ngành sư
phạm. Các trường Sư phạm muốn nâng cao chất lượng đào tạo của cần có chính sách
khuyến khích đối với đội ngũ cán bộ khoa học, giảng viên và nhà giáo có chức danh,
học vị cao. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục phải dựa trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công
tác; đồng thời, cần phải có cơ chế ưu đãi và quy định tuổi nghỉ hưu hợp lý đối với nhà
giáo có trình độ cao. Miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi
ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ.
Thứ ba, thực hiện tốt dân chủ trong nhà trường
Các trường Sư phạm cần khắc phục lối quán triệt, áp đặt một chiều, mà phải biết
lắng nghe ý kiến của cán bộ, nhân viên, đối thoại với nhân viên và liên hệ với thực
tiễn. Lãnh đạo nhà trường phải phát huy dân chủ, xác định rõ trách nhiệm của các
phòng ban trong quản lý giáo dục và đào tạo; đồng thời, đẩy mạnh phân cấp, nâng cao
trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cá nhân trong việc tham
gia đánh giá quản lý nhà nước.
Lãnh đạo ở các địa phương cần giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ
sở, giáo dục và đào tạo, phát huy vai trò của hội đồng trường. Thực hiện giám sát của
các chủ thể trong nhà trường và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ
quan quản lý các cấp, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Tuy nhiên vấn đề tự
chủ trong giáo dục và đào tạo cũng cần phải hiểu một cách thấu đáo. Nếu trong giáo
dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, việc huy động các nguồn thu ngoài ngân sách
như học phí, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ là hợp lý và cần thiết thì
giáo dục phổ thông cần nhà nước đầu tư ngân sách để bảo đảm các khoản chi của nhà
Kỷ yếu hội thảo khoa học 295
trường, cần coi giáo dục phổ thông, đặc biệt giáo dục phổ cập từ mẫu giáo 5 tuổi đến
hết trung học cơ sở, là dịch vụ công thiết yếu; việc thu học phí có thể đặt ra ở trung
học phổ thông hoặc ở một số cơ sở giáo dục đáp ứng nhu cầu của thị trường chất lượng
cao trong giáo dục, nhưng tuyệt đối không nên đặt yêu cầu về tự bảo đảm các khoản
chi như một điều kiện tiên quyết cho vấn đề tự chủ ở nhà trường.
Thứ tư, các cấp ủy đảng cần phải xây dựng chương trình, hành động cụ thể nhằm
thực hiện tốt chiến lược giáo dục và đào tạo của nhà trường
Phải khắc phục quan niệm đầu tư cho giáo dục như là một thứ phúc lợi đơn thuần,
đầu tư đến đâu hay đến đó mà cần phải có chiến lược cụ thể, trước mắt, lâu dài, tùy
vào từng đối tượng, hoàn cảnh để đưa ra những định hướng và giải pháp đúng đắn
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác đổi mới. Có thể nói chất lượng
giáo dục là mục tiêu hàng đầu của bất cứ quốc gia nào nhưng muốn có chất lượng thì
đòi hỏi phải có sự đầu tư thỏa đáng. Tuy nhiên đối với Việt Nam vài thập niên sắp
tới đây không thể đòi hỏi đầu tư của nhà nước cho giáo dục ngang bằng với các quốc
gia có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Do vậy, sự đầu tư giáo dục trong giai đoạn
này là cần phải tận dụng và huy động mọi nguồn lực đóng góp trong xã hội để có thể
nâng cao chất lượng và đạt được mục tiêu mà giáo dục và đào tạo Việt Nam đề ra.
Việc tận dụng các kinh nghiệm và mô hình giáo dục của các nước tiên tiến, tích cực
đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện tiết kiệm, chống tiêu cực trong giáo dục, thu
hút các nhà khoa học, nhà giáo giỏi trong và ngoài nước tham gia giảng dạy, đào tạo
và nghiên cứu khoa họclà những giải pháp cần được chú trọng nhằm sử dụng tối ưu
các nguồn đầu tư và hỗ trợ để nâng cao chất lượng giáo dục và thực hiện sự nghiệp đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong thời gian sớm nhất.
Thứ năm, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về
giáo dục và đào tạo
Để nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo cần tăng cường đầu tư phát triển hệ
thống giáo dục theo hướng mở, chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. Các cơ sở giáo
dục, đào tạo cần phối hợp với các tổ chức xã hội trong việc tiến hành tổ chức tuyên
truyền vận động và huy động mọi tầng lớp, mọi đối tượng thực hiện xã hội hóa giáo
dục. Chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng khó khăn. Đổi mới tư duy mạnh mẽ
trong việc vận dụng một cách sáng tạo các cơ chế, chính sách để hoàn thiện và củng
cố hệ thống giáo dục ở các cấp, nhất là những vùng miền núi và những vùng có hoàn
cảnh khó khăn thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai.
Xã hội hóa giáo dục và đào tạo là nhằm huy động sự tham gia đóng góp của toàn
xã hội cho sự phát triển của giáo dục và đào tạo. Tăng cường và đa dạng hóa các
nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo. Đẩy
mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi nguồn viện trợ quốc tế để tăng cường đầu tư cho
giáo dục và đào tạo. Khuyến khích huy động và tạo điều kiện để mọi tổ chức, cá nhân
đều có thể tham gia phát triển giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh khuyến học, khuyến tài,
nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng, góp phần xây
dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người được học tập suốt đời. Đa dạng hóa các
Kỷ yếu hội thảo khoa học296
phương thức đào tạo. Huy động các nguồn lực cho sự phát triển giáo dục, sẵn sàng
đáp ứng những yêu cầu, đề nghị về sự hỗ trợ, giúp đỡ nhà trường trong công tác giảng
dạy, giáo dục học sinh. Chủ động xây dựng các quỹ học bổng để hỗ trợ học sinh gặp
khó khăn, khen thưởng động viên kịp thời học sinh có thành tích trong học tập và rèn
luyện. Như vậy, để giáo dục con người toàn diện cần phải phối hợp nhịp nhàng các
yếu tố nêu trên bằng những biện pháp và hình thức cụ thể.
Hội nhập quốc tế là một bước tiến quan trọng trong hợp tác và phát triển giáo dục
lên một tầm cao mới. Nhà trường cần có chính sách khuyến khích động viên, khen
thưởng những nhà giáo sử dụng tiếng Anh để giảng dạy ở bất kỳ môn học nào, phải
quan tâm tới chất lượng đầu vào và các chương trình hỗ trợ đào tạo trao đổi giáo viên
với các nước để sinh viên và giáo viên có nhiều hơn cơ hội học tập và tiếp thu những
giá trị tích cực, những tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Các giải pháp nêu trên luôn có mối quan hệ biện chứng và tác động lẫn nhau, mặc
dù mỗi giải pháp chỉ tác động đến một mặt hay một vấn đề nào đó liên quan nhưng
sự phối hợp nhịp nhàng giữa các giải pháp nó sẽ tạo nên sự thống nhất giữa ý chí và
hành động để đội ngũ giảng viên trong các trường Cao đẳng Sư phạm có thể thực hiện
đúng đắn những chỉ đạo của nhà trường, tránh sự lệch lạc trong nhận thức nhằm tạo
nên một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp đổi mới giáo dục của nước nhà.
Tài liệu tham khảo
1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Dạy nghề, Viện nghiên cứu phát triển
phương Đông (2014), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Chương trình hành động của ngành Giáo dục
thực hiện chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2011- 2020, Kết luận số 51-KL/
TW ngày 29/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI và Chỉ thị số 02/CT - TTg ngày 22/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu Hội nghị Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo
tiếp tục triển khai việc xây dựng và chuẩn bị các điều kiện để áp dụng Chương trình,
Sách giáo khoa mới, Hà Nội, tháng 12/2017.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013),Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Hòa (2009), Phát triển giáo dục và đào tạo - một động lực để phát
triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 4/2009.
7. Nguyễn Văn Hòa (2010), Một số rào cản đối với việc phát huy tính sáng tạo
của con người Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Triết học, số
2/2010.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_giai_phap_nham_nang_cao_chat_luong_doi_ngu_giang_vien.pdf