Một số giải pháp để tạo động lực thúc đẩy, phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu dạy học chương trình phổ thông mới

Trong phát triển giáo dục và đào tạo, đội ngũ nhà giáo được coi là mấu chốt để

nâng cao chất lượng dạy và học. Vì vậy, nhìn nhận đúng vai trò, nâng cao chất lượng

đội ngũ và đổi mới cơ chế, chính sách nhà giáo luôn thu hút sự quan tâm không chỉ

đối với ngành giáo dục và đào tạo mà còn đối với toàn xã hội, bởi đây là loại hình lao

động đặc biệt góp phần “sáng tạo ra con người”, góp phần tái sản xuất sức lao động xã

hội, đào tạo và bồi dưỡng ra con người mới. Lao động sư phạm là quá trình tác động

qua lại giữa người dạy và người học, trong đó người dạy là người có trình độ, chuyên

môn, nghiệp vụ được xã hội giao nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Còn người học có nhiệm

vụ học tập, tiếp thu những giá trị văn hóa của xã hội loài người và rèn luyện hệ thống

kỹ năng kỹ xảo để sau này có thể ra đời sống và lao động nhằm thỏa mãn các tiêu chí

mà mục đích giáo dục đề ra. Tuy nhiên với bất kỳ hình thức nào, với vai trò dẫn đắt

quá trình học hỏi, người giáo viên luôn là nguồn cung cấp giáo dục quan trọng nhất, là

linh hồn của giáo dục đóng vai trò định hướng về tri thức, nhân cách và phương pháp,

đồng thời là tấm gương đối với người học. Ở mỗi cấp học, hình thức học, người giáo

viên đều gặp những thách thức khác nhau với những đặc thù riêng biệt. Có nhiều giáo

viên tình nguyện xa gia đình và người thân, làm giáo viên cắm bản, mang con chữ

đến những vùng xa xôi, hẻo lánh. Ðối với tất cả các bậc học từ giáo dục mầm non đến

đại học; dù là giáo dục chính quy hay giáo dục thường xuyên, đều có các nhà giáo là

các tấm gương tận tụy với nghề, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành sứ

mệnh “trồng người”.

pdf5 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 12/05/2022 | Lượt xem: 471 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Một số giải pháp để tạo động lực thúc đẩy, phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu dạy học chương trình phổ thông mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu hội thảo khoa học 49 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ TẠO ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY, PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU DẠY HỌC CHƯƠNG TRÌNH PHỔ THÔNG MỚI Thượng tá Trần Văn Bản, ThS. Hà Ngọc Phi(1) - Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh Đại học Huế CN Trịnh Thị Bích Hải(2) - Trường THPT Duy Tân, Kon Tum 1. Đặt vấn đề Trong phát triển giáo dục và đào tạo, đội ngũ nhà giáo được coi là mấu chốt để nâng cao chất lượng dạy và học. Vì vậy, nhìn nhận đúng vai trò, nâng cao chất lượng đội ngũ và đổi mới cơ chế, chính sách nhà giáo luôn thu hút sự quan tâm không chỉ đối với ngành giáo dục và đào tạo mà còn đối với toàn xã hội, bởi đây là loại hình lao động đặc biệt góp phần “sáng tạo ra con người”, góp phần tái sản xuất sức lao động xã hội, đào tạo và bồi dưỡng ra con người mới. Lao động sư phạm là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học, trong đó người dạy là người có trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ được xã hội giao nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Còn người học có nhiệm vụ học tập, tiếp thu những giá trị văn hóa của xã hội loài người và rèn luyện hệ thống kỹ năng kỹ xảo để sau này có thể ra đời sống và lao động nhằm thỏa mãn các tiêu chí mà mục đích giáo dục đề ra. Tuy nhiên với bất kỳ hình thức nào, với vai trò dẫn đắt quá trình học hỏi, người giáo viên luôn là nguồn cung cấp giáo dục quan trọng nhất, là linh hồn của giáo dục đóng vai trò định hướng về tri thức, nhân cách và phương pháp, đồng thời là tấm gương đối với người học. Ở mỗi cấp học, hình thức học, người giáo viên đều gặp những thách thức khác nhau với những đặc thù riêng biệt. Có nhiều giáo viên tình nguyện xa gia đình và người thân, làm giáo viên cắm bản, mang con chữ đến những vùng xa xôi, hẻo lánh. Ðối với tất cả các bậc học từ giáo dục mầm non đến đại học; dù là giáo dục chính quy hay giáo dục thường xuyên, đều có các nhà giáo là các tấm gương tận tụy với nghề, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành sứ mệnh “trồng người”. Tuy nhiên thực trạng giáo dục ở nước ta còn nhiều bất cập, vẫn còn tình trạng thừa, thiếu giáo viên về mặt cơ học, thiếu giáo viên ngay trong chính nội bộ trường đang thừa giáo viên. Áp lực dạy học ngày càng tăng, thu nhập của người giáo viên nhìn chung chưa đảm bảo cuộc sống để họ gắn bó với nghề từ đó dẫn đến những hệ quả không tốt đến mục tiêu chung mà giáo dục và đào tạo đã đặt ra. 2. Một số giải pháp Thứ nhất, đổi mới phương thức tuyển sinh, chương trình, nội dung, phương pháp dạy học và đánh giá trong các trường, khoa sư phạm theo yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục trách nhiệm nhà giáo và năng lực thực hành nghề nghiệp được coi trọng hàng đầu. Cần có cơ chế tuyển sinh riêng cho các trường sư phạm, khoa sư phạm trên cơ sở gắn kết với những chính sách cụ thể để thu hút, lựa chọn học sinh giỏi nhằm tuyển chọn được những người có năng lực phù hợp vào ngành sư phạm. Phải có tiêu chí, chỉ tiêu cụ thể của từng khoa sư phạm, từng trường sư phạm đảm bảo cung ứng Kỷ yếu hội thảo khoa học50 nguồn giáo viên có chất lượng cao; đào tạo đi đôi với giải quyết việc làm. Thực tế trong thời gian qua công tác đào tạo giáo viên chưa thực sự được chú trọng, buông lỏng quản lý, hầu hết các trường đều được mở mã ngành sư phạm tuyển sinh từ trung cấp đến đại học; chất lượng tuyển sinh đầu vào thấp, chế độ đãi ngộ và thu hút sinh viên vào ngành sư phạm hầu như không có. Trong tuyển dụng không có sự ưu tiên đối với những người học đúng chuyên ngành sư phạm và sự phân biệt bằng cấp chưa thực sự rõ ràng giữa các hình thức đào tạo; phải ưu tiên thứ tự: bằng đại học, cao đẳng và trung cấp sư phạm. Thứ hai, đổi mới công tác tuyển dụng nhà giáo phù hợp từng cấp học, bậc học, sát với thực tế vùng, miền, địa phương. Giao quyền tự chủ công tác tuyển dụng giáo viên cho các trường dưới sự giám sát chặt chẽ của hội đồng tuyển dụng độc lập có uy tín, lúc đó mới có được đội ngũ giáo viên vừa hồng vừa chuyên. Ưu tiên tuyển dụng những giáo viên người địa phương để giảm áp lực trong việc đi lại, ăn ở, sinh hoạt, chi tiêu và chăm sóc gia đình cũng góp phần vào việc cải thiện đời sống giúp người giáo viên an tâm công tác, gắn bó với hoạt động nghề nghiệp. Ngoài ra nên bãi bỏ chế độ công chức bởi rất nhiều người xem đây là một “chiếc rọ” an toàn, khi họ đã đạt được mục tiêu vào biên chế nhà nước thì sự nỗ lực trong hoạt động nghề nghiệp thường giảm sút. Phải tạo sự công bằng trong hoạt động nghề nghiệp đặc thù này như thế mới thu hút được nhiều giáo viên có chuyên môn giỏi, phương pháp sư phạm hay, cạnh tranh bình đẳng để họ khẳng định được vị trí của mình. Thực tế ở một số địa phương, nhiều giáo viên chấp nhận ký hợp đồng từ 5 đến 10 năm hoặc nhiều hơn thế nữa để chờ cơ hợi xét vào biên chế nhà nước nhưng vẫn không được nên ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý bất an, luôn bị lo lắng việc chấm dứt hợp đồng bất cứ lúc nào. Điều này làm cho họ không thể an tâm, toàn tâm toàn ý vào sự nghiệp trồng người. Vấn đề này dã diễn ra ở các tỉnh Thanh Hóa, Hà Nội, Đăk Lăk Thứ ba, đảm bảo tốt chế độ lương, thưởng, phụ cấp, phúc lợi hợp lý bởi khi con người thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của bản thân như ăn, mặc, ở, đi lại... từ đó họ có thể tái sản xuất sức lao động và có một phần tích lũy. Mặt khác, tiền lương không chỉ thể hiện giá trị công việc mà nó còn thể hiện giá trị, địa vị của người lao động trong gia đình, trong tổ chức và xã hội. Khi xây đựng quy chế trả lương cần đảm bảo tuân thủ nguyên tắc đó là: Ðảm bảo tính hợp pháp, phải tuân thủ các quy định trong các văn bản pháp luật. Nó phải phản ánh được chất luợng và kết quả lao động của người lao động thì khi đó tiền lương mới kích thích được người lao động làm việc hết mình cho tổ chức. Phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động giản đơn có nghĩa là phải đảm bảo mức chi tiêu tối thiểu của người lao động. Tiền lương được trả phải dựa vào trình độ chuyên môn mà người lao động có được, còn sự cống hiến dành cho tổ chức đó thể hiện ở số năm kinh nghiệm nghề nghiệp, số năm thâm niên làm việc tại tổ chức đó. Nếu làm tốt hai điều này người lao động sẽ thấy được vị trí của mình, họ sẽ yên tâm làm việc và cố gắng khả năng thăng tiến của bản thân. Song, đối với giáo viên, chế độ tiền lương phụ thuộc vào quy định pháp luật của nhà nước, tuy đây là biện pháp quan trọng, nhưng ở các cơ sở giáo dục lại không chủ động được vấn đề này, do vậy chính Kỷ yếu hội thảo khoa học 51 sách tiền lương của nhà nước đối với giáo viên cần có sự thay đổi để tạo động lực cho lao động nghề nghiệp của giáo viên. Thứ tư, ngoài vấn đề nâng cao đời sống vật chất cũng cần quan tâm đến yếu tố tinh thần cho đội ngũ giáo viên thông qua những hoạt động tham quan, giao lưu để làm giàu thêm vốn sống, tri thức và kỹ năng làm việc. Thông qua các hoạt động dã ngoại vui, khỏe, bổ ích sẽ giúp người giáo viên quên đi sự mệt mỏi, giảm áp lực trong công việc, góp phần tăng cường sự gắn bó, say mê nghề nghiệp, thúc đẩy giáo viên làm việc nhiệt tình, chủ động, sáng tạo và tích cực học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, cải thiện chất lượng cuộc sống để mỗi ngày đến trường giúp người giáo viên có đầy năng lượng, tinh thần, sinh khí làm việc đạt hiệu quả tốt nhất. Thứ năm, cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ tài chính để giáo viên tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới bởi trong điều kiện hiện nay giáo dục và đào tạo luôn là một yếu tố rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 đòi hỏi không chỉ người giáo viên mà đối với người học cách thức tiếp cận mới, không gian tri thức mở để tìm ra những giá trị thực tiễn cốt lõi và nó vượt ra ngoài khuôn khổ của môn học. Việc hỗ trợ tài chính và khuyến khích giáo viên học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ sẽ là động lực thúc đẩy đội ngũ giáo viên sáng tạo hơn, vững tin hơn trong truyền thụ kiến thức và chia sẽ những kinh nghiệm quý báu cho người học. Thứ sáu, cần giảm tải các nội dung, phong trào mang tính hình thức như các cuộc thi giáo viên dạy giỏi; thi sáng tạo mô hình học cụ; các sáng kiến kinh nghiệm; luyện thi học sinh giỏi; các danh hiệu thi đua; dự giờ; một số công việc lồng ghép như thanh tra, kiểm tra, dạy chuyên đề; tập huấn...khiến giáo viên cảm thấy quá tải, mệt mỏi. Tuy rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chủ trương không tổ chức các cuộc thi trên mạng internet (Toán, tiếng Anh) đã góp phần nào giảm áp lực cho giáo viên nhưng cần hạn chế hơn nữa những hoạt động thi đua mang tính hình thức, không cần thiết để giảm áp lực cho giáo viên và tạo động lực tốt hơn cho họ trong dạy học. Thứ bảy, tăng cường việc trao đổi kinh nghiệm, mời các chuyên gia giáo dục các nước tiên tiến về giảng dạy, trao đổi, học tập phương pháp giảng dạy tiên tiến phù hợp với điều kiện thực tiễn hiện nay. Những mô hình mới có hiệu quả cần phải nhân rộng, phổ biến. Ngoài ra cũng cần mời giáo viên giỏi ở các trường giao lưu dạy các em trường khác, đó là những sinh hoạt chuyên môn sư phạm rất hay và thực chất. Rồi cho học sinh nhận xét giáo viên, đồng nghiệp nhận xét, hỗ trợ nhau qua nhiều hình thức như góp ý trực tiếp hay qua hộp thư, qua đó tìm được tiếng nói chung giữa người dạy và người học; những gì người học đang cần thì giáo viên truyền đạt và chia sẻ, người dạy cũng tiếp thu được nhiều kiến thức, kỹ năng từ người học qua các buổi học như thế này để tránh cách truyền đạt một chiều, tẻ nhạt không đem đến hiệu quả trong công tác dạy học. Khi không khí lớp học sôi nổi, vui tươi, thảo luận tạo hiệu ứng rất tốt và buổi học sẽ trở thành một buổi trao đổi, nói chuyện, chia sẽ khiến người dạy và người học cảm thấy thích thú, học hỏi lẫn nhau. Người giáo viên sẽ có động lực để tiếp tục Kỷ yếu hội thảo khoa học52 nhiên cứu, đổi mới cách thức tiếp cận kiến thức và đối tượng, giúp họ yêu nghề và gắn bó hơn trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Thứ tám, tạo môi trường làm việc tích cực, hòa đồng, đánh giá năng lực giáo viên một cách khách quan, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia xây dựng chiến lược phát triển, được trao đổi, bàn bạc công khai các hoạt động của nhà trường; hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, sắp xếp bố trí thời gian giảng dạy hợp lý, tạo môi trường cảnh quan sư phạm thân thiện. Trong điều kiện nguồn chi ngân sách cho giáo dục còn khó khăn, việc ưu đãi về lương thưởng còn hạn chế thì ít nhất người giáo viên cần được cởi trói về áp lực công việc. Muốn thế thì mỗi gia đình, mỗi phụ huynh trước hết phải giúp giáo viên yên tâm công tác với nghề bằng sợi dây kết nối của lòng tương kính, thái độ hòa nhã và sự hợp tác thân thiện. Một môi trường sư phạm cởi mở, dân chủ để mỗi người thầy có thể mạnh dạn bộc lộ những lo âu, căng thẳng mà mình đang gặp phải để tìm tiếng nói chung, tìm được sự sẻ chia áp lực từ tập thể, các cơ quan đoàn thể và các cấp lãnh đạo. Mặt khác việc động viên khen thưởng cho giáo viên đạt thành tích xuất sắc cũng phải kịp thời, thường xuyên chứ không phải tổng kết theo từng năm học như hiện nay. Chẳng hạn việc bầu chọn gíao viên có thành tích xuất sắc có thể tiến hành theo hàng tháng hoặc hàng quý. Trong quá trình bình chọn cũng cần chú ý, công nhận và khen thưởng những giáo viên không nằm trong số giáo viên xuất sắc nhưng họ luôn cố gắng làm tốt công việc, những người đã vượt khó và vượt lên hoàn cảnh chính bản thân của họ. Ngoài ra sự quan tâm, khen ngợi của lãnh đạo kịp thời cũng tạo động lực không nhỏ khiến người giáo viên cảm thấy tự hào, sự đóng góp của họ đã được ghi nhận, từ đó khuyến khích họ làm việc tốt hơn, tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa người giáo viên và lãnh đạo nhà trường. 3. Kết luận Tạo động lực lao động giúp cho người giáo viên có thể tự hoàn thiện mình. Khi có động lực trong lao động, người giáo viên sẽ nỗ lực hơn để lao động học hỏi, vừa đúc kết được những kinh nghiệm trong công việc, nâng cao kiến thức, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ để tự hoàn thiện mình vừa tạo khí thế hăng say trong việc đóng góp sức lực, trí tuệ, góp phần hình thành ra những ý tưởng mới, những sản phẩm hay cho nhà trường. Khi kích thích bất cứ hoạt động nào của người giáo viên, các cán bộ quản lý phải chú ý tới các yêu tố tâm lý như mục đích công việc, nhu cầu hứng thú, sở thích, năng lực, sở trường, động cơ làm việc của mỗi cá nhân. Việc tạo động lực kích thích lao động làm việc có tác dụng gắn kết giữa các cán bộ giáo viên với cơ quan, trường học để giữ được cán bộ giáo viên giỏi. Điều này giúp tăng mức độ hài lòng, niềm tin, sự gắn bó và tận tâm của các giáo viên trong trường học; Giảm thời gian chi phí tuyển dụng và đào tạo giáo viên mới. Đó là nền tảng để tăng quy mô đào tạo nâng cao chất lượng và cải thiện đời sống người, giáo viên. Kỷ yếu hội thảo khoa học 53 Tài liệu tham khảo 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” 2. https://nhandan.com.vn/giaoduc/item/704002-html. 3.https://giaoducthoidai.vn/giao-duc/tao-dong-luc-de-giao-vien-hoan-thanh-tot- nhiem-vu-3907463-html.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfmot_so_giai_phap_de_tao_dong_luc_thuc_day_phat_trien_doi_ngu.pdf
Tài liệu liên quan