Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập Tiếng Việt, chữ viết với phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học. Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn khác khi có kiến thức Tiếng Việt. Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Hơn nữa, con người muốn tư duy phải có ngôn ngữ. Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng “bụng bảo dạ” cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ mà các nhà chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng ta thể hiện ra ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tuởng của chúng ta thành những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trôi chảy và nếu trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt. Môn Tiếng Việt trong trường tiểu học không thể là bản sao từ chương trình khoa học Tiếng Việt vì trường có nhiệm vụ riêng của mình. Nhưng với tư cách là một môn học độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức về hệ thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp, khả năng biểu cảm của ngôn ngữ, quy tắc hoạt động của ngôn ngữ). Đồng thời, kiến thức môn Tiếng Việt hình thành cho HS kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra, Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà các môn học khác không có được, đó là: trang bị cho HS một số công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường, là công cụ để học các môn học khác; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện là điều kiện thiết yếu của quá trình học tập. Bên cạnh chức năng giao tiếp, tư duy ngôn ngữ còn có chức năng quan trọng nữa đó là thẩm mĩ, ngôn ngữ là phương tiện để tạo nên cái đẹp, hình tượng nghệ thuật. Trong văn học, HS phải thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ
39 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 936 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho học sinh lớp 5, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u được đây là các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái, khác nhau về phạm vi biểu vật. Đỏ rực, đỏ ối, đỏ lòm, đỏ lừ, đỏ tươi, đỏ bầm, đỏ tía, đỏ bừng.... mặc dù đều cùng chỉ màu đỏ, nhưng rõ ràng đỏ rực, khác đỏ lòm, đỏ bừng ở nét nghĩa. Đỏ rực nghĩa tỏa sáng ra xung quanh, đỏ lòm gây cảm giác khó chịu.
Từ đây giáo viên cung cấp cho học sinh điều cần ghi nhớ: các từ đồng nghĩa trong tiếng Việt hết sức đa dạng, phong phú, đặc biệt là các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái nên các em cần thận trọng khi sử dụng các từ đồng nghĩa này vì mỗi từ có sắc thái biểu cảm và khả năng biểu hiện không giống với các từ khác trong hàng loạt từ đồng nghĩa. Loại bài tập này một mặt giúp học sinh luyện tập về từ đồng nghĩa, mặt khác giúp các em hệ thống hóa vốn từ tốt hơn. Dựa vào điểm đồng nhất, các em
phong phú được vốn từ của mình.Trên cơ sở đó các em có điều kiện lựa chọn được từ thích hợp nhất đưa vào từng hoàn cảnh sử dụng.
b, Dạng bài tập tìm các từ đồng nghĩa với từ đã cho.
Dạng 1 : Bài tập phân loại từ.
Đây là những bài tập cho sẵn các từ, yêu cầu học sinh phân loại theo một căn cứ nào đó. Thực chất khi giải các bài tập này, học sinh làm tiếp tục công việc của bài tập tìm từ theo đặc điểm cấu tạo. Nghĩa là từ các từ cùng đặc điểm cấu tạo huy động được, các em phân hóa tiếp để tìm ra các từ đồng nghĩa với nhau hơn. Các bài tập phân loại từ có thể chia thành bài tập phân loại từ theo nhóm nghĩa, theo tiểu loại từ loại vv...
Ví dụ: Xếp các từ chỉ màu xanh vào các nhóm thích hợp.
a, Màu xanh gợi cảm giác dễ chịu.
b, Màu xanh gợi cảm giác khó chịu, ghê sợ hoặc thương cảm.
(xanh biếc, xanh lè, xanh lét, xanh mét, xanh tươi, xanh xẫm, xanh đậm, xanh um, xanh thẳm, xanh thắm, xanh nhạt, xanh non, xanh xao, xanh ngắt, xanh rớt, xanh rờn, xanh mướt, xanh bóng... )
* Dạng 2: Bài tập sử dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa.
Mục đích cuối cùng của việc dạy từ là để học sinh sử dụng được từ trong hoạt động giao tiếp. Chính vì vậy, dạy sử dụng từ rất quan trọng. Nhiệm vụ cơ bản của dạy từ ngữ là chuyển vốn từ tiêu cực của học sinh thành vốn từ tích cực, hình thành ở các em kĩ năng sử dụng từ, nắm được nghĩa và khả năng kết hợp của từ. Đó là bài tập điền từ, bài tập thay thế từ ngữ, bài tập đặt ngữ, bài tập đặt câu, viết đoạn văn ngắn và bài tập chữa lỗi dùng từ.
a, Bài tập điền từ
Cho trước các từ, yêu cầu học sinh tìm từ thích hợp để điền vào chỗ trống trong câu văn cho sẵn.
Bài tập 4 (LTV5- T1- Tr 9).
Một sớm chủ nhật đầu xuân, khi mặt trời vừa(1)..........(vén, mở, bóc) mây nhìn xuống, Thu phát hiện ra chú chim lông(2)..............(xanh biếc, xanh ngắt, xanh rì) sà xuống cành lựu. Nó săm soi (3)..........(chộp, mổ, đớp) mấy con sâu rồi thản nhiên rỉa cánh, hót lên mấy tiếng (4).........(rúc rích, líu lo, râm ran)
Giải : 1 - vén
2 - xanh biếc
3 - mổ
Bài tập điền từ là kiểu bài tập tích cực hóa vốn từ ở mức độ thấp. Khi tiến hành giải bài tập, giáo viên hướng học sinh nắm nghĩa của các từ đã cho(với bài tập cho sẵn từ cần điền) và xem xét kĩ đoạn văn có chỗ trống (giáo viên nên chép sẵn lên bảng) giáo viên cho học sinh đọc lần lượt từng câu ở đoạn cho sẵn đến chỗ trống thì dừng lại, cân nhắc xem có thể dùng từ nào điền vào để câu văn đúng nghĩa, phù hợp với ngữ cảnh sử dụng.
b, Bài tập thay thế từ ngữ
Đây là loại bài tập đặc trưng cho dạng bài tập sử dụng từ đồng nghĩa. Vì có rất nhiều từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái cho nên trong quá trình sử dụng cần cân nhắc, lựa chọn kĩ lưỡng sao cho từ được chọn phù hợp với nghĩa của từ cần hoặc đoạn đã cho.
Ví dụ: Tìm từ ngữ trong ngoặc đơn có thể thay thế cho từ quê hương ở trong đoạn văn sau và giải thích vì sao lại chọn từ đó:
“ Tây nguyên là quê hương của tôi. Nơi đây, tôi đã lớn lên trong địu vải thân
thương của má, trong tiếng ngân vang của dòng thác, trong hương thơm ngào ngạt của núi rừng” (quê quán, quê cha đất tổ, giang sơn, nơi chôn rau cắt rốn). (TV5- t1 tr -89).
c, Bài tập tạo ngữ
Bài tập tạo ngữ nhằm luyện cho học sinh biết kết hợp các từ.
Ví dụ: Ghép từ công dân vào trước hoặc sau từng từ dưới đây để tạo
thành những cụm từ có nghĩa.
Chọn ra các cụm từ đồng nghĩa với nhau :
nghĩa vụ, quyền, ý thức, bổn phân, trách nhiệm, gương mẫu, danh dự
(TV5- T2- Tr155).
Khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài thay thế từ ngữ và lựa chọn từ để tạo ngữ, tôi làm như sau:
- Hướng dẫn HS nhận ra sự khác nhau về nghĩa khi dùng các từ đồng nghĩa.
- Giải thích vì sao lựa chọn một từ nào đó để thay thế hoặc để ghép tạo ngữ.
d, Bài tập dùng từ đặt câu
Loại bài tập này yêu cầu HS đặt câu với một từ hoặc một số từ cho trước luyện cho HS nắm vững mối quan hệ giữa từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa với từ nhiều nghĩa.
Ví dụ: Tìm các cặp đồng nghĩa, trái nghĩa với các nghĩa khác nhau của từ lành và đặt câu với các từ vừa tìm được.
Đáp án
Từ
Nét nghĩa
Từ đồng nghĩa
Từ trái nghĩa
Lành
- Nói về tính nết, phẩm chất của người.
hiền, nhân hậu
dữ, ác, ác độc
- Nói tính chất vật lí của vật
nguyên vẹn
rách, vỡ, méo
- Nói về tính chất của thực phẩm
an toàn
độc hại
- Nói về tình trạng của bệnh tật, sức khỏe
khỏe
ốm, đau yếu
+ Đặt câu: Mẹ em rất lành, mẹ Hà cũng rất hiền.
Cái cặp này lành, cái cặp kia bị rách ..vv...
e, Bài tập chữa lỗi dùng từ.
Bài tập đưa ra câu dùng từ sai, yêu cầu học sinh nhận ra và sửa chữa.
Ví dụ 1: Chỉ ra từ chưa phù hợp trong đoạn văn sau, rồi thay thế chúng bằng từ phù hợp.
Đàn cá hồi gặp thác phải nghỉ lại lấy sức để sáng mai vượt sóng. Suốt đêm thác réo điên đảo. Mặt trời vừa nhô lên, dòng thác óng ánh sáng quắc dưới nắng.
Khi hướng dẫn học sinh thực hiện bài tập chữa lỗi dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa, tôi đã làm như sau:
- Chỉ ra lỗi.
- Phân tích nguyên nhân mắc lỗi.
- Đưa ra cách sửa chữa.
Ví dụ: cùng nói về màu đen, nhưng đen nhánh thêm nghĩa bóng đẹp, có thể phản chiếu ánh sáng được, còn đen láy là đen ánh lên. Vì thế đen láy thường được dùng để nói về mắt, đen nhánh được dùng cho tóc. Nói mắt đen nhánh, tóc đen láy là không phù hợp.
Lưu ý: Để các tiết dạy thành công khi áp dụng các biện pháp dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa thì giáo viên cần tổ chức các hình thức dạy học thích hợp, hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức bài học nhẹ nhàng, tự nhiên, phát huy được tính tích cực của học sinh. Điều này đòi hỏi giáo viên cần phải tìm ra được hình thức dạy học thích hợp với tâm lý nhận thức học sinh.
Khi dạy giải nghĩa từ:
1. Tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với sự vật, hoạt động, tính chất mà nó biểu thị.
* Ví dụ: Giải thích từ “Chôm chôm”, tôi cho học sinh nhìn thấy quả chôm chôm (quả có gai mềm ở vỏ, khi chín vỏ có màu đỏ, cùi trắng, ngọt như quả vải).
Giải nghĩa từ “bế”, ôm” tôi cho các em làm động tác để quan sát.
Ngoài ra, có thể dùng tranh ảnh, mô hình...cho quan sát, từ đó nêu nghĩa
của từ (bằng cách này học sinh có thể hiểu nghĩa của từ chỉ các sự vật, hiện tượng không trực tiếp nhìn thấy hoặc diễn ra ở xung quanh).
+ Bà nội: Người sinh ra bố.
3. Khi củng cố kiến thức dạng bài về các lớp từ:
- Tổ chức hình thức trò chơi thi sử dụng từ trái nghĩa dưới dạng bài tập:
Bài tập 1: Điền từ trái nghĩa vào chỗ trống trong từng câu thơ sau:
Yếu trâu còn hơn ............bò (khoẻ)
Có bé lại xé ra ............đáng buồn (to)
Lành làm gáo,...........làm muôi (vỡ)
Ở ....người cười, ở hẹp người chê (rộng)
(TNTP số 39 A + 39B tháng 3/2002).
Hình thức vừa dạy tổ chức trò chơi như vậy ngay trong không gian lớp học,tại thời gian của lớp học làm cho học sinh đỡ căng thẳng, tạo được hứng thú và niềm tin trong học tập. Cứ mỗi khi tôi cho các em tiếp xúc với đoạn thơ, câu đố, các em chăm chú theo dõi. Những đôi mắt ánh lên niềm vui thích rồi ào ạt xung phong, em đượcchỉ định thì phấn khởi, hồ hởi, em không được gọi thì xuýt xoa rồi những tràng vỗ tay cổ vũ...
- Để chuyển tải được khái niệm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ khi dạy bài: Nghĩa của từ, tôi đã tìm cách đặt từ vào trong câu, nói rộng hơn là đặt từ trong ngữ cảnh. Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hoá, cụ thể hoá nghĩa của từ và để học sinh hiểu vấn đề, tôi cung cấp: trong các nghĩa khác nhau của từ nhiều nghĩa, nghĩa nào là nghĩa trực tiếp, gần gũi, quen thuộc “dễ hiểu” thì đó là nghĩa gốc; còn nghĩa nào là nghĩa gián tiếp, phải suy ra, hiểu rộng ra từ nghĩa gốc, không gần gũi quen thuộc lắm, có phần “khó hiểu” thì đó là nghĩa chuyển.Với cách dẫn dắt cụ thể như vậy, học sinh đã nhận biết được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ rất nhạy bén.
Đây là loại bài dễ sa vào lối giảng giải lý thuyết khô khan, nặng nề, máy móc, nên tôi cố gắng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc tự tìm ra tri thức bằng cách gợi dẫn thích hợp bằng những ví dụ cụ thể, rõ ràng.
Ví dụ: khi dạy bài từ đồng nghĩa (tiết 1, tuần 1) . Mặc dù sách giáo viên
có hướng dẫn nhưng để học sinh dễ nắm bắt kiến thức về từ đồng nghĩa, hiểu dễ dàng thế nào là từ đồng nghĩa, tôi đã tiến hành như sau:
- Học sinh quan sát tranh một chiếc máy bay bay trên bầu trời qua bài giảng điện tử, bất ngờ tôi lại đưa ra một chiếc tàu bay gấp bằng giấy rồi mô hình một chiếc phi cơ...để các em nhận biết và so sánh nghĩa của từ máy bay, tàu bay, phi cơ, các em dễ dàng hiểu được thế nào là từ đồng nghĩa.
Cách tổ chức như vậy nhằm củng cố kiến thức vừa đáp ứng nhu cầu tích cực hoá hoạt động học tập của các em, hình thành năng lực tư duy tốt mỗi học sinh đều được bộc lộ mình và phát triển rèn luyện óc suy nghĩ tổng hợp, sự quan sát nhanh cùng với sự thích thú của lứa tuổi hiếu động, giàu cảm xúc, hồn nhiên, luôn ưa thích cái mới lạ, vui tươi, hấp dẫn.
Tóm lại, dựa vào những hiểu biết về lí thuyết và thực tiễn đã trình bày, tôi đã tìm ra những biện pháp giải nghĩa từ thích hợp đối với từng loại từ. Chia các từ cần giải nghĩa thành từng nhóm và tìm ra biện pháp giải nghĩa phù hợp, tôi muốn giúp giáo viên tiểu học có phương pháp hệ thống trong hoạt động giải nghĩa từ. Trong mỗi giờ học, giáo viên chỉ cần hướng dẫn học sinh cách giải nghĩa một số từ trong nhóm. Học sinh dựa vào cách mà giáo viên đã dạy đó, tiếp tục giải nghĩa các từ còn lại. Có một số điểm cần lưu ý với giáo viên trong quá trình dạy như sau:
- Thứ nhất, khi giải nghĩa GV cần diễn đạt lời giảng sao cho ngắn gọn, súc tích, đầy đủ, phải biết chọn cách diễn đạt sao cho đối với những từ trong cùng một nhóm ngữ nghĩa được giảng bằng công thức giống nhau.
- Thứ hai, giúp học sinh hiểu được các từ “công cụ” mà giáo viên thường huy động để mở đầu cho lời giải nghĩa từ như: sự vật, hoạt động, tính chất, trạng thái....
- Thứ ba, người giảng phải khái quát được ngôn cảnh để lời giảng đảm bảo đầy đủ các nghĩa và phát hiện ra được những nét tinh tế trong nghĩa của từ cần giải nghĩa.
Việc giải nghĩa các từ ngữ có giá trị nghệ thuật, được luận văn tách ra thành mục riêng với phương pháp tìm hiểu đặc trưng. Để hiểu sâu sắc các nét nghĩa của từ, nắm được những sắc thái nghĩa tinh tế của nó, giáo viên có thể dùng biện pháp so sánh với các từ cùng trường nghĩa đồng nghĩa, hay trái nghĩa, hoặc biện pháp dựa vào quy tắc chuyển nghĩa.
Hoạt động dạy các từ ngữ đồng nghĩa, trái nghĩa được luận văn cụ thể bằng hệ thống bài tập thực hành... Thực hành nhận biết và thực hành sử dụng. Học sinh sẽ được cung cấp những hiểu biết về từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa một cách cơ bản, tinh giản nhất thông qua hoạt động luyện tập. Cũng thông qua hoạt động luyện tập, học sinh biết cách dùng từ ngữ phù hợp nhất với ngữ cảnh trong hoạt đồng nghĩa nhờ các thao tác lựa chọn, thay thế từ
2.3. Kết quả nghiên cứu:
Với những biện pháp dạy học về nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa, qua một năm thực hiện ở lớp 5 của trường, tôi thấy đạt được kết quả rất khả quan:
1. Giáo viên:
- Nắm chắc, hiểu sâu rộng, bao hàm được kiến thức về cách giải nghĩa từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa.
- Thiết kế và tổ chức tiến hành các tiết học của môn Tiếng Việt nhẹ nhàng, hiệu quả hơn.
2. Học sinh:
- Vốn từ ngữ của HS phong phú hơn, nhạy bén trong việc tìm từ, dùng từ
- Học sinh tích cực, chủ động hơn trong giờ học, ham thích khi được học tiết Luyện từ và câu, mạnh dạn bộ lộ khả năng của mình trước lớp qua các bài tập, trò chơi, câu đố.
- Trong giao tiếp học sinh nhạy bén, tự tin, dùng từ chuẩn xác.
- Chất lượng giờ học được nâng lên: tỉ lệ học sinh hiểu bài, phát biểu bài nhiều hơn, chính xác hơn.
3. Chất lượng:
- Chất lượng môn Tiếng Việt của lớp chủ nhiệm (lớp thực nghiệm) được nâng lên rõ rệt qua bảng phân tích số lượng sau:
Kết quả năm học trước :
THỜI GIAN
LỚP 5B (LỚP ĐỐI CHỨNG)
LỚP 5A (LỚP THỰC NGHIỆM)
NĂM HỌC 2013-2014
G
K
TB
Y
G
K
TB
Y
6 HS
17,1%
18 HS
51,4%
11HS
31,5%
16 HS
45,7%
15 HS
42,9%
4 HS
11,4%
- Kết quả năm học 2013 – 2014.
THỜI GIAN
LỚP 5B (LỚP ĐỐI CHỨNG)
LỚP 5A (LỚP THỰC NGHIỆM)
ĐẦU NĂM
G
K
TB
Y
G
K
TB
Y
10 HS
28,6%
15HS
42,8%
8HS
22,9%
2HS
5,7%
18 HS
51,4%
15 HS
42,9%
2 HS
5,7%
GIỮA KÌ II
12HS
34,3%
18 HS
51,4%
5 HS
14,3%
0
24 HS
68,6%
11 HS
31,4%
- So với năm học trước lớp 5A học thực nghiệm đã có kết quả tăng rõ nét. Học sinh thấy hứng thú học và không cho đây là môn học khô cứng và khó.
2.4. Bài học kinh nghiệm :
Qua tìm hiểu và áp dụng một vài biện pháp dạy - học về vấn đề “Dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5” trong năm học 2013-2014, tôi nhận thấy để hiệu quả giờ học cao hơn, học sinh hứng thú học, giờ học thật
vui, thật nhẹ nhàng, sôi nổi đặc biệt mỗi học sinh đều được bộc lộ suy nghĩ về vốn sống, vốn từ của mình thì người giáo viên phải tạo cho các em một tâm thế thoải mái khi bước vào tiết học đối với từ khó hiểu giáo viên phải chủ động khơi trong các em để các em hiểu nghĩa. Qua tìm hiểu và áp dụng vào giảng dạy tôi cũng đã tự học thêm rất nhiều kiến thức giải nghĩa từ cho học sinh có thể bằng nhiều hình thức như: tìm từ đồng nghĩa với nó, bằng tranh ảnh, bằng vật thật hoặc có thể bằng cách đặt câu.
Thành công của tôi trong tìm hiểu vấn đề này là làm dày thêm vốn từ và kinh nghiệm giảng dạy.
III. Phần kết luận, kiến nghị :
1. Kết luận :
Để dạy và học tốt phần nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa, tôi đã tìm ra những biện pháp giải nghĩa từ thích hợp đối với từng loại từ. Để giờ dạy đạt kết quả cao, người giáo viên cần:
1.1. Nắm vững kiến thức về từ, các lớp từ:
Phương pháp dạy học mới không cho phép giáo viên cung cấp kiến thức cho học sinh theo kiểu truyền thụ một chiều song lại yêu cầu giáo viên phải nắm vững kiến thức sâu sắc để hướng dẫn, làm trọng tài khoa học cho học sinh. Đối với các tiết luyện từ và câu về từ nhiều nghĩa vốn kiến thức của giáo viên lại đặc biệt quan trọng. Muốn có điều này giáo viên phải bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu kĩ, đặc biệt phải nắm rõ các nghĩa của từ một cách chính xác.
1.2. Thiết kế hệ thống bài tập phù hợp:
Phiếu học tập cho nhóm hoặc cá nhân là một trong những hình thức học tập rất hữu hiệu giúp học sinh có thể tích cực, chủ động trong học tập.Mặt khác nó còn giúp giáo viên nắm được kết quả ngược từ học sinh một cách chính xác, từ đó giáo viên có thể linh hoạt trong việc giảng dạy, học sinh nắm vững nội dung bài học. Phiếu học tập cần được thiết kế bằng hệ thống các bài tập trắc nghiệm khách quan như: nối, đúng- sai, nhiều lựa chọn
1.3. Cần sử dụng các phương pháp dạy học mới:
Để dạy tốt các tiết học về từ nhiều nghĩa giáo viên cần đưa các phương pháp dạy học mới như phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp trò chơi
1.4. Chuẩn bị tốt tâm thế học tập cho học sinh
Giáo viên cần phải giao nhiệm vụ cho học sinh rõ ràng, kích thích hứng thú học tập của các em bằng các hình thức thi đua, khen thưởng. ngoài ra giáo viên cần kiểm tra bài vở học sinh kể cả học sinh yếu lẫn học sinh khá, giỏi để tất cả các em cùng học tập, tránh tình trạng vì kiến thức quá khó nên một vài học sinh không học tập hoặc học tập không hiệu quả.
2. Kiến nghị :
2.1. Đối với công tác chỉ đạo chuyên môn của nhà trường:
Đề nghị Ban giám hiệu triển khai hoặc tổ chức hội thảo kịp thời để ứng dụng các sáng kiến kinh nghiệm đã được đánh giá cao để GV học hỏi, bổ sung kinh nghiệm nâng cao năng lực, trình độ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh.
Tổ chức các chuyên đề cấp trường, cấp cụm về môn Tiếng Việt nhiều hơn để GV có nhiều kinh nghiêm trong giảng dạy.
2.2. Đối với giáo viên:
- Không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiên cứu tìm tòi, học hỏi để có phương pháp giảng dạy tối ưu.
- Nghiên cứu chuẩn bị bài chu đáo, lôgic để dẫn dắt học sinh theo đúng trình tự nội dung bài dạy.
- Trong quá trình dạy - học, GV nên áp dụng các trò chơi, hình thức dạy học một cách linh hoạt để HS có thể tiếp thu kiến thức đạt hiệu quả cao nhất.
- Chuẩn bị đồ dùng, trò chơi sáng tạo, không dập khuôn.
Để đạt được kết quả nêu trên phần lớn là nhờ sự quan tâm sát sao của các cấp thuộc ngành giáo dục đã đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, sự chỉ đạo thống nhất, khoa học của Ban Giám hiệu nhà trường. Với thời gian, điều kiện và năng lực có hạn nên trong phần trình bày của tôi không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự giúp đỡ, góp ý của bộ phận chuyên môn các cấp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện, áp dụng có hiệu quả hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đông Triều, ngày 22 tháng 3 năm 2014
TÁC GIẢ THỰC HIỆN
Nguyễn Thị Hoan
IV. Tài liệu tham khảo:
STT
TÊN TÀI LIỆU
TÁC GIẢ
1
Sách Tiếng Việt lớp 5, Tập 1, tập 2 – NXB Giáo dục – Năm 2006.
Nguyễn Minh Thuyết ( Chủ biên)
2
Sách Tiếng Việt giáo viên lớp 5, tập 1, tập 2 – NXB Giáo dục- Năm 2010.
Nguyễn Minh Thuyết ( Chủ biên)
3
Dạy học từ ngữ ở trường Tiểu học - NXB Giáo dục – Năm 2000.
Phan Thiều- Lê Hữu Tỉnh
4
Phương pháp dạy Tiếng Việt 1 - NXB Giáo dục – Năm 2001
Lê Phương Nga - Đỗ Xuân Thảo - Lê Hữu Tỉnh
5
Phương pháp dạy Tiếng Việt 2 - NXB Giáo dục – Năm 2001.
Lê Phương Nga - Nguyễn Trí
6
Báo Thiếu niên Tiền Phong
Năm 2002
7
Từ điển Tiếng Việt - NXB Giáo dục - 1997
Hoàng Phê ( Chủ biên)
8
Trò chơi thực hành Tiếng Việt 5 - Xuất bản năm 2007- NXB Giáo dục.
Vũ Khắc Tuân
Mục lục
TT
TÊN MỤC
TRANG
1
I. Phần mở đầu
1
2
1. Ly do chọn sáng kiến kinh nghiệm
1
3
2. Mục đích nghiên cứu
2
4
3.Thới gian và địa điểm
3
5
4. Đóng góp về mặt thực tiễn
3
6
II. Phần nội dung
4
7
1. Chương 1. Tổng quan
4
8
1.1. Cơ sở ly luận
4
9
1.2 Cơ sở thực tiễn
5
10
2. Chương 2. Nội dung vẫn đề nghiên cứu
6
11
2.1. Thực trạng
6
12
2.2. Các biện pháp
9
13
Biện pháp 1. Các biện pháp nghĩa từ
10
14
Biện pháp 2. Các biện pháp tìm hiểu ý nghĩa của một số từ có giá trị nghệ thuật trong văn bản tập đọc.
18
15
Biện pháp 3. Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa
20
16
2.3. Kết quả nghiên cứu
32
17
2.4. Bài học kinh nghiệm
34
18
III. Phần kết luận, kiến nghị
34
19
IV. Tài liệu tham khảo
37
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_bien_phap_de_day_nghia_cua_tu_va_cac_lop_tu_co_quan_he_ve_nghia_cho_hoc_sinh_lop_5_0291.doc