Niềm hạnh phúc đón nhận một thành viên mới chưa kịp vơi
thì người mẹ trẻ phải đối mặt với những căn bệnh mà họ
không hề biết sự hiểm nguy luôn cận kề. Vì vậy, bên cạnh
công việc chăm sóc cho con trẻ, các bà mẹ hãylưu ý một
số căn bệnh thông thường sau đây, có cách phòng và điều
trị đúng để không bị ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và con
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1196 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Một số bệnh thường gặp sau khi “vượt cạn”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số bệnh thường gặp sau khi “vượt cạn”
Niềm hạnh phúc đón nhận một thành viên mới chưa kịp vơi
thì người mẹ trẻ phải đối mặt với những căn bệnh mà họ
không hề biết sự hiểm nguy luôn cận kề. Vì vậy, bên cạnh
công việc chăm sóc cho con trẻ, các bà mẹ hãy lưu ý một
số căn bệnh thông thường sau đây, có cách phòng và điều
trị đúng để không bị ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và con.
Bệnh “nứt cổ gà” thường gặp ở những bà mẹ đang cho con
bú (google image)
Bệnh “nứt cổ gà”
Bệnh “nứt cổ gà” thường gặp ở những bà mẹ đang cho con
bú. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bệnh này là vì cho con
bú không đúng cách. Thay vì cho bé ngậm hết quầng vú thì
mẹ chỉ cho con mớm hời hợt vào núm vú. Vì thế, mỗi lần
bé bú, núm vú bị kéo, giật mạnh, lâu ngày gây ra hiện
tượng “nứt cổ gà”. Biểu hiện ban đầu của bệnh là xuất hiện
một hoặc hai vết nứt nhỏ, sau đó tấy đỏ, đau nhức, thậm chí
nhiễm trùng, mưng mủ. Nếu không chữa trị kịp thời, vết
nứt sẽ lan dài quanh chân núm vú, gây đau đớn cho mẹ và
mất vệ sinh cho trẻ. Phòng tránh bệnh này bằng cách cho
trẻ bú đúng cách. Hãy kéo bé về phía ngực mình, kích thích
bằng cách dùng đầu vú cù vào môi dưới của trẻ để trẻ há
miệng to như đang ngáp, lúc này mẹ phải kéo nhanh bé về
phía bầu vú. Miệng của bé mở rộng sẽ ngậm hết toàn bộ
phần quầng vú và đầu vú.
Các sản phụ cũng nên chăm sóc vú bằng các sản phẩm
chuyên dụng như: mỡ cừu tinh chế, dầu hướng dương, kem
dưỡng núm vú để tránh bị “nứt cổ gà”. Bên cạnh đó, phải
vệ sinh đầu vú thường xuyên bằng cách lau vú bằng nước
ấm sau khi cho con bú và tránh để da bị khô nẻ. Không bôi
xà phòng hoặc dùng dung dịch triệt khuẩn trên vùng vú, vì
sẽ dẫn đến hiện tượng da khô và nứt núm vú. Hạn chế mặc
áo lót để làm giảm sự phát triển của vi khuẩn. Việc chữa trị
bệnh “nứt cổ gà” cũng khá đơn giản. Trước tiên, cần rửa
sạch chỗ đau bằng nước ấm pha muối. Sau đó, lau khô và
bôi thuốc tetracyclin, bepanthen, lanolin, fuciort... Các bài
thuốc dân gian cũng khá hiệu nghiệm trong việc điều trị
bệnh này như bài thuốc rượu hạt gấc. Hãy lấy hạt gấc sao
vàng, hạ thổ, tán mịn, ngâm rượu trắng rồi bôi lên chỗ bị
đau sẽ có tác dụng sát khuẩn. Hoặc giã nát mồng tơi và một
ít muối hạt rồi đắp lên vết thương hoặc dùng lá rau ngót giã
nát, vắt lấy nước cốt rồi đắp lên chỗ nứt... Ngoài ra, có thể
lau sạch vùng bị đau, chờ đến khô rồi nặn một chút sữa và
xoa lên đầu vú rồi để khô, đến tối lại rửa sạch và lại làm
như vậy, thực hiện việc này cho đến khi khỏi hẳn. Để tiếp
tục duy trì nguồn sữa cho trẻ trong khi điều trị, hãy vắt sữa
thường xuyên vào đúng các cữ bú của trẻ. Chỉ đến khi vết
thương đã kín miệng và lên da non mới nên cho trẻ bú lại.
Viêm nhũ
Viêm nhũ là quá trình bế tắc, ứ đọng sữa và tạo mủ cấp
tính. Bệnh thường phát sinh vào thời kỳ cho con bú với
những triệu chứng bầu vú sưng nóng, sốt, đau mình.
Nguyên nhân chính của bệnh này cũng là do trẻ bú mẹ
không đúng cách làm trầy da vùng xung quanh núm vú và
dẫn đến viêm tuyến sữa. Ngoài ra, còn có một số nguyên
nhân khác như không day đều bầu sữa để thông tia sữa
ngay sau sinh; không vệ sinh đầu vú và vắt bỏ sữa thừa khi
trẻ không bú hết (sữa đọng gây ôi, tắc và ung nhũ); tinh
thần không thư thái làm can khí uất, ảnh hưởng đến chức
năng vận hóa của tỳ, sữa ứ đọng hóa hỏa sinh nhũ cung...
Để chữa trị thì cách đơn giản nhất là ngưng cho con bú ở
bên viêm, nặn bớt sữa. Sau đó uống kháng sinh (sau khi đã
đi khám bác sĩ), bệnh sẽ khỏi sau vài ngày. Nhưng nếu chỗ
viêm da đã thành áp-xe thì nên đi khám. Bác sĩ sẽ rạch
vùng áp-xe đủ rộng để lấy hết mủ và để một ống nhựa dẫn
mủ chảy ra cho sạch hẳn.
Cơn tetani do hạ canxi máu
Nguyên nhân của việc xuất hiện cơn tetani là do trong quá
trình mang thai và cho con bú, một lượng lớn canxi được
lấy từ người mẹ sang thai nhi để phát triển hệ thống xương
của thai nhi. Quá trình này làm cho nồng độ canxi máu của
người mẹ giảm, đặc biệt ở những người mẹ có chế độ ăn
không đầy đủ canxi theo nhu cầu (1.500mg/ ngày) hay
những người bị bệnh đường tiêu hóa mãn tính. Những
người nghén nhiều hay nôn làm mất nước, điện giải và tình
trạng kiềm hóa kèm theo tình trạng lo lắng, tạo điều kiện
cho cơn tetani xuất hiện. Dấu hiệu báo trước của tình trạng
này là sự kích thích quá mức của hệ thống thần kinh - cơ
hoặc đi kèm là hiện tượng bị cảm, nặng nề ở tay, chân,
vùng quanh miệng. Tiếp theo là hiện tượng co cơ đột ngột,
nhất là ở bàn tay và ngón tay (giống hình ảnh bàn tay người
đỡ đẻ). Ngoài ra, cũng có thể biểu hiện ở các vị trí khác
như ở chân hay ở mặt. Một số trường hợp có kèm với co
thắt cơ trơn gây nên tình trạng khó thở do co thắt khí quản
hay đau bụng do co thắt cơ trơn ở ruột... Tình trạng này kéo
dài từ vài phút đến vài giờ. Có thể có tình trạng lo lắng,
hoảng hốt, mạch nhanh... Khi đi khám, bác sĩ có thể phát
hiện được tình trạng co cơ vùng má khi gõ bằng búa phản
xạ vùng trước lỗ tai (dấu hiệu Chvostek) hay cơn tetani tái
xuất hiện khi yêu cầu bệnh nhân thở nhanh (gây tình trạng
kiềm hóa máu do tăng thông khí). Xét nghiệm máu trong
cơn sẽ thấy canxi máu giảm nhưng đôi khi có những trường
hợp canxi máu không giảm.
Để phòng tránh và điều trị chứng bệnh này thì lời khuyên
trước tiên là nên bổ sung canxi (1.000 - 1.500mg/ ngày) và
vitamin D. Có thể bổ sung bằng các thức ăn giàu canxi
(cua, cá, thịt...) và phơi nắng để tăng tổng hợp vitamin D từ
da. Các triệu chứng của cơn tétani sẽ hết đi nhanh nếu được
tiêm tĩnh mạch dung dịch canxi (thường dùng 500 -
1.000mg dung dịch canxi clorua).
Một điều lưu ý các bà mẹ là không nên tự ý sử dụng thuốc
điều trị các chứng bệnh xương khớp trong thời kỳ thai
nghén và cho con bú. Khi dùng thuốc phải có sự chỉ dẫn
của bác sĩ chuyên khoa, để tránh những hậu quả không
mong muốn cho cả mẹ và con.
Theo SK&ĐS
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 82_6606.pdf