Tóm tắt. Hệcác mô hình ba chiều (3D) thuỷ động lực và biến động các đặc trưng môi trường biển
đã được phát triển và ứng dụng cho khu vực cửa sông ven biển chịu tác động mạnh của thuỷtriều.
Cùng với hệcác phương trình 3D thuỷ động lực biển nguyên thuỷ, hệthống mô hình đã giải bài
toán bình lưu-khuếch tán đối với hợp phần trầm tích lơlửng. Quá trình bứt tách và lắng đọng vật
chất lơlửng trên đây được tính theo các hệthức thực nghiệm có kể đến tác động của lớp biên đáy
dưới ảnh hưởng của sóng và dòng chảy. Một sốkỹthuật tính toán mới đã được phát triển cho
phép linh hoạt hơn trong quá trình thiết lập các điều kiện biên có mực nước và lưu lượng biến đổi
phức tạp.
Hệthống mô hình đã được hoàn thiện và thửnghiệm cho vùng cửa sông ven biển cảng Hải Phòng.
Các kết quảnghiên cứu cho phép lý giải một sốnguyên nhân của hiện tượng bồi xói đáy, gây đục
nước ĐồSơn và cảnh báo các vùng có nguyên cơngập lụt và xói lởbờbiển.
Từkhoá:Mô hình ba chiều (3D) thủy động lực, cửa sông chịu tác động mạnh thủy triều, hiện
tượng bồi xói đáy.
7 trang |
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Mô hình vận chuyển trầm tích và biến động địa hình đáy áp dụng cho vùng biển cửa sông cảng Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 133‐139
133
_______
Mô hình vận chuyển trầm tích và biến động địa hình đáy áp
dụng cho vùng biển cửa sông cảng Hải Phòng
Đinh Văn Ưu*
Trung tâm Động lực và Môi trường biển, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN
Ngày nhận 02 tháng 01 năm 2009
Tóm tắt. Hệ các mô hình ba chiều (3D) thuỷ động lực và biến động các đặc trưng môi trường biển
đã được phát triển và ứng dụng cho khu vực cửa sông ven biển chịu tác động mạnh của thuỷ triều.
Cùng với hệ các phương trình 3D thuỷ động lực biển nguyên thuỷ, hệ thống mô hình đã giải bài
toán bình lưu-khuếch tán đối với hợp phần trầm tích lơ lửng. Quá trình bứt tách và lắng đọng vật
chất lơ lửng trên đây được tính theo các hệ thức thực nghiệm có kể đến tác động của lớp biên đáy
dưới ảnh hưởng của sóng và dòng chảy. Một số kỹ thuật tính toán mới đã được phát triển cho
phép linh hoạt hơn trong quá trình thiết lập các điều kiện biên có mực nước và lưu lượng biến đổi
phức tạp.
Hệ thống mô hình đã được hoàn thiện và thử nghiệm cho vùng cửa sông ven biển cảng Hải Phòng.
Các kết quả nghiên cứu cho phép lý giải một số nguyên nhân của hiện tượng bồi xói đáy, gây đục
nước Đồ Sơn và cảnh báo các vùng có nguyên cơ ngập lụt và xói lở bờ biển.
Từ khoá: Mô hình ba chiều (3D) thủy động lực, cửa sông chịu tác động mạnh thủy triều, hiện
tượng bồi xói đáy.
1. Đặt vấn đề*
Các quá trình tự nhiên liên quan đến biến
động và vận chuyển trầm tích và các chất ô
nhiễm trong nước chịu tác động của bình lưu,
khuếch tán và xáo trộn của toàn bộ khối nước
cũng như động lực học của các lớp biên, đặc
biệt là lớp biên đáy. Khả năng tính toán phân bố
vận tốc vận chuyển của nước và ứng suất đáy
cho phép xác định được các thông lượng trầm
tích và vật chất trao đổi qua lớp biên đáy phục
vụ hoàn thiện mô hình biến động vật chất trong
nước. Để đáp ứng yêu cầu này cần phải hoàn
thiện mô hình thuỷ động lực bao gồm các lớp
biên mặt và đáy cho phép tính đến một cách
tối đa có thể các tác động của sông, biển và
khí quyển.
* ĐT: 84-4-38584945.
E-mail: uudv@vnu.edu.vn
Hệ thống mô hình sẽ chú trọng đến các
tác động chủ yếu như lưu lượng sông, thuỷ
triều, gió và sóng trên mặt biển.
Việc triển khai thử nghiệm mô hình đối với
vùng cửa sông ven biển cảng Hải Phòng trong
các điều kiện thực tế của địa hình và khí tượng,
thuỷ văn, hải văn phức tạp cho phép hoàn thiện
hệ thống mô hình có khả năng áp dụng cho các
vùng cửa sông ven biển Việt Nam.
2. Hệ thống mô hình
Hệ thống mô hình số bao gồm các mô hình
kết hợp thuỷ động lực và môi trường biển, trong
Đ.V. Ưu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 133‐139 134
đó các mô hình 3D hệ phương trình nguyên
thuỷ thuỷ động lưc và biến đổi vật chất là phần
cốt lõi. Mô hình 2D biến đổi lớp trầm tích trên
đáy được ứng dụng để mô phỏng biến động địa
hình đáy. Các mô hình tác động bề mặt và lớp
biên đáy đóng vai trò kết nối các mô hình nêu trên
thông qua điều kiện biên giữa nước với không khí
và đáy biển. Liên kết giữa thuỷ vực nghiên cứu
với sông và biển được xử lý thông qua các điều
kiện biên hở với những kỹ thuật phù hợp.
Mô hình 3D thuỷ động lực biển kèm theo
các mô hình tác động trên mặt và lớp biên đáy
đã được mô tả chi tiết trong các công trình
trước đây [1,2]. Hệ thống mô hình này cho phép
tính đến các tác động phức tạp của sóng và gió
trên mặt biển đến quá trình thuỷ động lực học
nước biển trong đó có lớp biên đáy. Đối với
điều kiện biên hở, đã triển khai một quy trình
mới cho phép xấp xỉ lưu lượng nước sông trên
biên sông-biển thông qua lượng gia tăng mực
nước so với mực nước chung trên thuỷ vực. Kỹ
thuật mới này đã khắc phục được khó khăn nẩy
sinh trước đây, khi lưu lượng nước vào ra bị
triều chi phối.
Trong mô hình vận chuyển trầm tích sử
dụng phương trình 3D bình lưu-khuyếch tán
nồng độ trầm tích lơ lửng không biến tính (c):
z
c
zy
c
yx
c
x
cw
z
cw
z
cv
y
cu
xt
c
zyx
s
∂
∂
∂
∂+∂
∂
∂
∂+∂
∂
∂
∂=
=∂
∂+∂
∂+∂
∂+∂
∂+∂
∂
λλλ
)()()()(
Trong đó, bên cạnh các thành phần vận tốc
(u,v, w) và hệ số khuếch tán (λx,λy,λz) theo 3
hướng, vận tốc lắng đọng ws phụ thuộc vào đặc
trưng của trầm tích lơ lửng.
Quá trình lắng đọng và bứt tách trầm tích
trên đáy được kết nối với mô hình vận chuyển
trầm tích thông qua điều kiện biên đáy:
EDQ
z
ccw
b
zs +==⎥⎦
⎤⎢⎣
⎡
∂
∂− λ
Trong đó Q là suất trao đổi trầm tích trên
một đơn vị diện tích bề mặt do kết quả của các
quá trình lắng đọng (D) và bứt tách (E).
Suất trao đổi trầm tích Q được xác định
thông qua đặc trưng thu được trực tiếp từ mô
hình thuỷ động lực như ứng suất đáy tổng cộng
do sóng và dòng chảy , các đại lượng này
phụ thuộc vào tính chất của trầm tích như các
giá trị ứng suất tới hạn lắng đọng và bứt
tách cũng như phân bố của nồng độ vật
chất lơ lửng trong lớp biên đáy. Quy luật phân
bố này thường được chọn trong dạng sau đây
liên quan đến khoảng cách quy chiếu z
cwu∗
cdu∗
ceu∗
a và nồng
độ quy chiếu Ca tương ứng.
∗−
⎟⎟⎠
⎞
⎜⎜⎝
⎛=
uw
a
az
s
z
zCC
κ/
Mô hình biến động địa hình đáy được xây
dựng trên cơ sở phương trình liên tục đối với
trầm tích đáy được viết trong dạng biến động
của độ dày một thể tích đơn vị trầm tích đáy do
divergence của dòng di đáy và suất trao đổi
trầm tích qua mặt phân cách nước-đáy. Phương
trình mô tả quá trình tiến triển này được lấy
trong dạng:
Q
y
q
x
q
t
zp yxb +∂
∂+∂
∂=∂
∂− )1(
Trong đó là độ dày lớp trầm tích đáy, p
là độ xốp của lớp trầm tích trên đáy, q
bz
x và qy là
các thành phần của dòng di đáy và Q là suất
trao đổi trầm tích.
Như đã trình bày trong các công trình trước
đây, dòng di đáy của trầm tích được tính toán
theo các hệ thức thực nghiệm (Mayer-Piter
(1948), Van Rijn (1984),...). Trong hệ thống mô
hình này, ứng suất đáy tổng cộng được lấy trực
tiếp từ mô hình 3D thuỷ động lực, các giá trị
ứng suất tới hạn được xác định dựa vào đặc
trưng của trầm tích lơ lửng. Như đã trình bày ở
phần trên, suất trao đổi trầm tích giữa đáy và
nước được tính toán thông qua kết quả kết hợp
Đ.V.Ưu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 133‐139 135
của mô hình 3D thuỷ động lực học và mô hình
3D vận chuyển trầm tích lơ lửng.
3. Kết quả ứng dụng hệ thống mô hình cho
vùng biển cửa sông cảng Hải Phòng
Vùng biển cửa sông cảng Hải Phòng ở đây
được xem là phần chuyển tiếp giữa hệ thống
các sông Cấm, sông Bạch Đằng, sông Chanh và
vùng biển hở thông qua hai cửa chính là Nam
Triệu và Lạch Huyện. Khu vực nghiên cứu sẽ
bao gồm toàn bộ thủy vực nước nông ven bờ
tây kéo dài từ Đình Vũ đến Đồ Sơn, bãi nước
nông phía Nam Cát Hải và các lạch tàu chính
Nam Triệu và Lạch Huyện. Trong thuỷ vực
này, các quá trình thuỷ động lực bị chi phối chủ
yếu bởi thuỷ triều và lưu lượng sông đổ ra biển.
Do chu kỳ biến động của hai quá trình này
khác nhau nên trước mắt chúng tôi nghiên cứu
dao động của thuỷ triều và dòng triều trên nền
biến động lưu lượng sông ổn định cho từng thời
đoạn lớn hơn một chu kỳ triều.
Các kết quả mô hình hóa đã cho ta thấy
chênh lệch mực nước giữa các vị trí khác nhau
của thuỷ vực thường không vượt quá 5-10cm
trong điều kiện gió bình thường. Tuy nhiên
trong điều kiện gió bão, quá trình dâng rút mực
nước xẩy ra dẫn đến hiện tượng mực nước ven
bờ cao hơn hoặc thấp hơn nhiều so với mực
nước triều cỡ trên 50-60cm. Khu vực xẩy ra
nước dâng và rút mạnh nhất là ven đê 14 Đồ
Sơn cũng như ven bờ Cát Hải (hình 1). Hiện
tượng dâng mực nước này sẽ trở nên cực kỳ nguy
hiểm nếu tính đến quá trình lan truyền sóng dài từ
ngoài vào cũng như nước dâng do sóng.
Với kết quả mô phỏng này có thể thấy dải
ven bờ phía bắc Đồ Sơn đến thành phố là khu
vực có nguy cơ ngập lụt đáng kể trong điều
kiện bão tác động trực tiếp đến dải bờ biển Hải
Phòng. Cùng với nguy cơ ngập lụt, nguy cơ xói
lở đê biển và công trình ven biển tại các đoạn
bờ này cũng gia tăng trong điều kiện bão.
Hình 1. Bản đồ phân bố độ cao mực nước với tác động của gió bão (trái) và không có gió trong pha triều cường.
Đối với bức tranh hoàn lưu, dễ dàng nhận
thấy đặc điểm thuận nghịch hướng song song
bờ của dòng chảy phía ngoài Cát Hải (hình 2).
Các dòng chảy này xuất phát từ một cửa lạch và
kết thúc tại một cửa lạch khác, trong khi dao
động mực nước tại hai cửa này lại hầu như
đồng thời.
Đ.V. Ưu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 133‐139 136
Hình 2. Phân bố dòng triều tạo nên dòng liên tục qua khu vực nước nông ngoài khơi Cát Hải trong hai pha triều
cao (trái) và thấp (phải).
Chế độ dòng chảy thu được từ mô hình
khẳng định sự hiện diện của các lạch triều đáng
kể trên khu vực bãi nam Cát Hải trong đó có
lạch sâu giữa bờ Bến Gót và trương Hàng Dày.
Kết quả ứng dụng mô hình vận chuyển trầm
tích lơ lửng đồng thời với mô hình thủy động
lực cho thấy quá trình vận chuyển trầm tích lơ
lửng từ cửa Nam Triệu dẫn đến sự gia tăng độ
đục của nước tại vùng biển ngoài khơi Đồ Sơn
cũng như Cát Bà. Hiện tượng này sẽ có những
biến đổi nhất định dưới tác động của gió cũng
như sóng và được tăng cường đáng kể trong
trường hợp lưu lượng sông có giá trị trên mức
trung bình (hình 3).
Kết quả thu được trong khi áp dụng mô
hình thủy động lực kết hợp vận chuyển trầm
tích lơ lửng và biến đổi địa hình đáy cũng cho
thấy khả năng ứng dụng của hệ thống mô hình
đối với vùng biển có điều kiện tự nhiên phức
tạp như Hải Phòng.
Hình 3. Phân bố nồng độ chất lơ lửng với lưu lượng sông trên trung bình khi triều cao (trái) và triều thấp (phải).
Có thể nhận thấy dòng chảy dọc bờ có giá
trị lớn tại hai vùng tây-nam và đông-nam Cát
Hải đã tạo nên hai lạch triều liên kết dòng chảy
trên hai lạch tàu-cửa sông chính Nam Triệu và
Lạch Huyện. Chính sự khẳng định này đã góp
phần lý giải hiện tượng vùng đáy biển gần bờ
nam Cát Hải có xu thế bị xói thường xuyên,
trong khi phần đáy biển nằm phía ngoài cũng
Đ.V.Ưu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 133‐139 137
như Lạch tàu Nam Triệu và Lạch Huyện bị bồi
tụ. Hiện tượng hội tụ và phân kỳ dòng chảy trên
vùng biên giữa lạch triều này cũng như các lạch
tàu với bãi bồi ngoài khơi Cát Hải là nguyên
nhân dẫn đến sự ổn định của xu thế bồi tụ tại
đây, đặc biệt là các dải cát dọc hai lạch tàu
chính trương Hàng Dày và trương Hoàng Châu.
Từ kết quả phân tích số liệu viễn thám [3]
có thể thấy các khu vực biển có xu thế bị xói
đáy như dải ven bờ đông-nam Đình Vũ và Phú
Long chủ yếu do dòng chảy triều mạnh sát bờ
không cho phép trầm tích lắng đọng (hình 4).
Hình 4. Bản đồ biến động đường bờ và địa hình đáy vùng biển nghiên cứu [3].
Với các đặc trưng sóng chế độ không lớn
trên các khu vực ven bờ nêu trên, hiện tượng
xói đáy không thể do nguyên nhân chính là
sóng như nhiều nhà nghiên cứu trước đây từng
khẳng định. Chính hệ thống dòng chảy mạnh
trên dải độ sâu chuyển tiếp này đã tạo nên dòng
vận chuyển dọc bờ mang theo các trầm tích có
nguồn gốc từ đới sóng đổ. Điều này khẳng định
sự hiện diện của các khu vực bờ biển bị ăn mòn
nằm tại các vị tương ứng bị xói đáy phía ngoài.
Bên cạnh các quá trình thường xuyên chu
kỳ lớn, các quá trình mang tính tới hạn quy mô
synop như bão, lũ, v.v... lại có thể gây nên
những hậu quả đáng kể, bao gồm các hiện
tượng cực đoan như xói lở bờ, công trình hay
ngập lụt dải ven bờ. Trong số đó có ví dụ về
cơn bão số 7 (Damrey) đổ bộ vào bờ biển các
tỉnh từ Thanh Hoá đến Hải Phòng vào rạng
sáng ngày 27 tháng 9 năm 2005 với sức gió
mạnh tới cấp 10, 11 có nơi giật trên cấp 12 đã
làm vỡ một số đoạn trên tuyến đê Hoàng Châu -
Văn Chấn (Cát Hải) và đê biển Đồ Sơn bị uy
hiếp nghiêm trọng. Sóng to đã sóng tràn qua đê
biển Đồ Sơn khiến tuyến đường chạy ven biển
bị ngập nước sâu 1m.
Các kết quả sơ bộ mô phỏng quá trình bồi,
xói địa hình đáy biển cũng đã cho thấy, bên
cạnh đặc điểm bồi tụ và xói lở đáy dài hạn như
đã phân tích ở phần trên với các vùng bồi tụ và
xói nằm xen kẽ nhau với quy mô tương đối nhỏ
(hình 5).
Đ.V. Ưu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 133‐139 138
Hình 5. Bản đồ phân bố các vùng bồi-xói đáy biển theo kết quả mô hình (0,1m là độ dày lớp trầm tích ban đầu).
Những kết quả thu được cho thấy khả năng
ứng dụng hệ thống mô hình Trung tâm Động
lực và Môi trường biển (MDEC) trong yêu cầu
đưa ra cảnh báo về những nguy cơ ngập lụt và
xói lở bờ biển trong điều kiện thủy thạch động
lực phức tạp như các cửa sông vùng triều Việt
Nam. Vấn đề này càng có ý nghĩa hơn khi
nghiên cứu các hiện tượng này trong tác động
ngày càng tăng của biến đổi khí hậu và mực
nước biển dâng.
4. Kết luận
Hệ thống mô hình MDEC cho phép tính đến
các tác động chủ yếu đến hệ thống cửa sông ven
biển như lưu lượng sông, thuỷ triều, gió và sóng
trên mặt biển.
Việc triển khai thử nghiệm mô hình đối với
vùng cửa sông ven biển cảng Hải Phòng trong
các điều kiện thực tế của địa hình và khí tượng,
thuỷ văn, hải văn phức tạp cho phép hoàn thiện
hệ thống mô hình có khả năng áp dụng cho các
vùng cửa sông ven biển Việt Nam.
Lời cảm ơn
Những kết quả thu được với sự hỗ trợ kinh
phí của đề tài Trọng điểm ĐHQG QGTD.07.04
Đề tài NC Cơ bản 706106 và đề tài KC
09.23/06-10. Tác giả chân thành cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
[1] Dinh Van Uu, Ha Thanh Huong, Pham Hoang
Lam, Development of system of Hydrodynamic-
environmental models for coastal area (Case study
in Quangninh-Haiphong region), Journal of
Science, Earth Sciences T. XXIII, No1 (2007) 59.
[2] Dinh Van Uu, Towards a coastal ocean
monitoring and prediction system for
Vietnamese Sea Waters, The 4th seminar on
environmental science and technology issues
Đ.V.Ưu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 133‐139 139
related to the sustainable development for urban
and coastal area, The 7th general seminar of
CUP between JSPS and VAST, Danang, 2007.
[3] Đinh Văn Ưu, Nguyễn Tiền Giang, Nguyễn
Hiệu, Tiến tới cảnh báo các khu vực có nguy cơ
ngập lụt và xói lở trên vùng cửa sông ven biển
Hải Phòng, Báo cáo Hội thảo khoa học Xói lở bờ
biển Việt Nam và các biện pháp phòng tránh,
VUSTA, Đồ Sơn, 2008.
Application of the sediment transport and
bottom morphological change model
for a marine estuarine area of Hải Phòng Port
Dinh Van Uu
Marine Dynamics and Environment Centre, College of Science, VNU
A system of three-dimentional (3D) marine hydrodynamics and environement was developed and
applied for tidal dominated estuarine basin. The full 3D thermo-dynamic primitive equations were
used with a 3D advection-diffusion equations for suspended sedimentary matters. The sedimentation
and resuspension rate was calculated by semi-empirical formula for bottom boundary layer at presence
of wave and current. A special computation procedure was developed and applied for open-river
boundary where water level and river discharge are in complex interaction.
The modeling system was applied to marine estuarine basin of Hai Phong Port. Simuted results
can help to explain different aspects of sediment transport, bottom morphological change and
inundation risk for study area.
Keywords: 3 dimension hydrodynamic model, tidal dominated estuarine regions, bed erosion and
deposition.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_thuy_van_70__7938.pdf