Trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay, các trường Đại học trên thế
giới đều coi tự chủ đại học là giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng và mở rộng
cơ hội giáo dục. Do vậy, mô hình tự chủ đại học ở các nước trên thế giới rất phong
phú, đa dạng về loại hình và chất lượng. Bài viết nghiên cứu mô hình tự chủ đại học
tại một số nước như: Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Israel, Australia Bởi mô hình tự
chủ đại học ở các nước này, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đang là
hình mẫu cho nhiều quốc gia học tập, trong đó có Việt Nam. Và trên cơ sở đó, bài viết
đề xuất một số giải pháp xây dựng mô hình tự chủ đại học tại Việt Nam trong thời gian
tới.
7 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 17/05/2022 | Lượt xem: 480 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Mô hình tự chủ trong giáo dục đại học ở Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Israel, Australia và những đề xuất cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
515
MÔ HÌNH TỰ CHỦ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở HOA KỲ, CANADA,
NHẬT BẢN, ISRAEL, AUSTRALIA VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM
Đặng Danh Hướng
Trường THPT Hoàng Văn Thụ, Hà Nội
Tóm tắt:
Trong thời đại công nghệ phát triển như hiện nay, các trường Đại học trên thế
giới đều coi tự chủ đại học là giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng và mở rộng
cơ hội giáo dục. Do vậy, mô hình tự chủ đại học ở các nước trên thế giới rất phong
phú, đa dạng về loại hình và chất lượng. Bài viết nghiên cứu mô hình tự chủ đại học
tại một số nước như: Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Israel, Australia Bởi mô hình tự
chủ đại học ở các nước này, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đang là
hình mẫu cho nhiều quốc gia học tập, trong đó có Việt Nam. Và trên cơ sở đó, bài viết
đề xuất một số giải pháp xây dựng mô hình tự chủ đại học tại Việt Nam trong thời gian
tới.
Từ khóa: Mô hình, tự chủ đại học, giáo dục đại học, đại học, Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia đều có thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
riêng, cho nên mô hình tự chủ đại học ở mỗi quốc gia có những loại hình khác nhau,
nhưng cơ bản đều thống nhất là nâng cao chất lượng và mở rộng cơ hội giáo dục của
nhà trường. Vậy mô hình tự chủ nào phù hợp đối với các trường Đại học Việt Nam? có
thể áp dụng thành công vào các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức
tại các trường Đại học ở Việt Nam. Xuất phát từ thực tế khách quan trên, bài viết tập
trung phân tích mô hình tự chủ đại học ở Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Israel,
Australia Từ đó, đề xuất mô hình tự chủ đại học có thể áp dụng vào hệ thống các
trường đại học Việt Nam, để giải quyết các vấn đề đang tồn tại, giúp nâng cao hiệu
quả hoạt động của các trường đại học.
2. Nội dung
2.1. Một số mô hình tự chủ Đại học ở Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Israel,
Australia.
Trong thời đại công nghệ phát triển, mô hình tự chủ đại học ở các nước trên thế
giới rất đa dạng, phong phú về loại hình và chất lượng. Mô hình tự chủ đại học trên thế
giới đã và đang chuyển dần từ mô hình nhà nước kiểm soát sang mô hình nhà nước
giám sát với mục đích tăng cường tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học, hay nói đúng
hơn là loại hình tự chủ đại học tuyệt đối. Như:
Hoa Kỳ, mô hình tự chủ ở các trường Đại học xây dựng theo hướng tự chủ đại
học tuyệt đối. Mô hình này, giúp cho các cơ sở Giáo dục Đại học vận hành tốt hơn,
hoạt động hiệu quả hơn, đồng thời cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở Giáo
dục Đại học, tạo điều kiện để đa dạng hóa các hoạt động Giáo dục Đại học. Và các cơ
sở Giáo dục Đại học không chịu sự chỉ đạo, quản lý của bất kỳ cơ quan trung ương
nào, trách nhiệm chủ yếu của các tiểu bang. Các tiểu bang chỉ quản lý một phần, bằng
việc đầu tư một khoản kinh phí và cử đại diện tham gia Hội đồng quản trị. Bộ Giáo
516
dục Hoa Kỳ quản lý hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục một cách gián tiếp thông
qua việc công nhận cơ quan, hiệp hội kiểm định chất lượng giáo dục và cung cấp
chương trình học bổng, tín dụng cho sinh viên của cơ sở Giáo dục Đại học đã được
công nhận kiểm định. Để cạnh tranh và thu hút sinh viên, các cơ sở Giáo dục Đại học
liên tục đổi mới và nâng cao vị trí trong bảng xếp hạng của các tổ chức kiểm định nổi
tiếng. Trong mô hình tự chủ đại học này, hội đồng quản trị có quyền lực tối cao, giám
sát chính sách đảm bảo chất lượng Giáo dục Đại học, thông qua chủ trương liên quan
đến chương trình đào tạo, tổ chức nhân sự, các nguồn tài chính. Thành phần của hội
đồng quản trị khá đa dạng, thường là những người có danh tiếng, uy tín, thành công
đặc biệt về một lĩnh vực nào đó ở địa phương hoặc có những đóng góp tài chính nên
hội đồng quản trị của Hoa Kỳ có quan điểm toàn diện. Số lượng thành viên của hội
đồng quản trị từ 25 đến 35 người do các giảng viên bầu cùng với các thành viên ngoài
trường do tiểu bang đề cử, tỉ lệ thành viên ngoài trường chiếm khoảng 60-70%. Hơn
nữa, nguồn lực tài chính dồi dào và quyền tự chủ cao của các cơ sở Giáo dục Đại học
Hoa Kỳ, đã tạo ra sự linh hoạt trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học do
không bị chi phối bởi các thủ tục hành chính nặng nề, các cơ quan quản lý cồng kềnh.
Đồng thời, cơ chế tự chủ của Hoa Kỳ đã tạo ra môi trường cạnh tranh, khuyến khích
nghiên cứu khoa học, đổi mới và sáng tạo. Ngoài ra, chính phủ Hoa Kỳ còn hỗ trợ gián
tiếp cho các tác động tích cực của thị trường đối với Giáo dục Đại học, do vậy mô hình
tự chủ đại học tuyệt đối của Hoa Kỳ mang định hướng thị trường cao [5]. Vì vậy, hệ
thống Giáo dục Đại học của Hoa Kỳ được xem là hàng đầu thế giới.
Canada, xây dựng mô hình tự chủ đại học theo hướng tập đoàn hóa một cách
phi tập trung. Với hai cấp độ: Tập đoàn hóa trong quản trị đại học trên cấp độ hệ
thống quốc gia và Tập đoàn hóa trong quản trị cấp độ nhà trường. Tập đoàn hóa trong
quản trị đại học trên cấp độ hệ thống quốc gia tức là ngân sách trung ương dành cho
giáo dục sau trung học phổ thông đã bị cắt giảm khoảng 13,5 tỷ USD trong giai đoạn
1983 - 1995; giai đoạn 1994 - 2005, giảm khoảng 50%, ngân sách địa phương cũng bị
cắt giảm. Mặc dù ngân sách nhà nước giảm, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn thu thường xuyên của các trường. Bởi các trường đại học phải kiểm soát chi phí
và huy động nguồn lực bên ngoài để bù vào số ngân sách nhà nước bị cắt giảm. Tập
đoàn hóa trong quản trị cấp độ nhà trường tức là tái cấu trúc bộ máy quản trị của nhà
trường khi số lượng các nhà quản trị chuyên nghiệp tăng lên chiếm một phần ba tổng
số các nhà quản trị đại học; nhà trường luôn có một phó chủ tịch chịu trách nhiệm huy
động nguồn vốn đầu tư cho trường và được hỗ trợ bởi cả một bộ máy hành chính; nhà
trường áp dụng cơ chế tuyển dụng nhân sự theo hợp đồng để tăng hiệu quả sử dụng đội
ngũ nhân sự và quyền tự chủ của đội ngũ quản trị. Tuy nhiên, cơ chế quản trị này có
thể cản trở các giảng viên hợp đồng tiếp cận các cơ hội bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao
chất lượng và cải thiện thu nhập; Các trường áp dụng đào tạo trực tuyến để tăng năng
suất, hiệu quả đào tạo, tăng quyền lực của đội ngũ quản trị và giảm bớt sự phụ thuộc
vào các giảng viên giảng dạy trực tuyến, bởi vì nhiều công việc học thuật được chuyển
giao cho bộ phận hành chính. Tuy nhiên, đào tạo trực tuyến bị phê phán là kém hiệu
quả về mặt giáo dục phẩm chất, năng lực của con người do thiếu mối quan hệ trực tiếp
giữa giảng viên với người học. Do vậy, trên thực tế, các trường đại học chỉ áp dụng
đào tạo trực tuyến từng phần một cách phù hợp; Các trường ưu tiên nghiên cứu chuyển
giao khoa học, công nghệ thay cho mô hình quản trị đại học hàn lâm. Theo mô hình
mới kiểu tập đoàn hóa, giảng viên dành 20% thời gian cho giảng dạy, 40% cho nghiên
cứu và 40% cho hoạt động phục vụ cộng đồng. Đặc biệt, các trường đầu tư nhiều hơn
cho nghiên cứu - triển khai hợp tác với doanh nghiệp [2].
517
Nhật Bản, mô hình tự chủ đại học xây dựng theo hướng Tổng công ty/tập đoàn
đại học quốc gia được điều hành thông qua hệ thống Hội đồng quản trị, bao gồm chủ
tịch và người được ủy thác, và thành lập các bộ phận quản lý, giáo dục và các ban điều
hành cần thiết khác. Tập đoàn đại học quốc gia sẽ mời những người bên ngoài tham
gia thành viên của Hội đồng trường và trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý. Mỗi
tập đoàn đại học quốc gia được thành lập 03 hội đồng trong mỗi trường, gồm: 1) Hội
đồng quản trị là bộ phận cao nhất có quyền quyết định về tài chính và do Chủ tịch
trường đứng đầu; 2) Hội đồng quản lý, điều hành có trách nhiệm quyết định các vấn đề
về hành chính, điều hành hoạt động của trường; 3) Hội đồng giáo dục và nghiên cứu
thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến đào tạo và nghiên cứu. Để tập trung quyền
lực cho Chủ tịch và Hội đồng quản trị trường, các trường đại học quốc gia đã giảm các
cuộc họp mang tính chất ra quyết định tập thể, ví dụ như Đại học giáo dục Aichi đã
giảm số lượng các cuộc họp từ 19 xuống còn 7 cuộc họp/năm; giảm số lượng các ủy
ban từ 36 xuống 24, số lượng thành viên các ủy ban từ 400 xuống còn 100 người. Để
tăng quyền quyết định cho Chủ tịch trường và giảm các quyết định mang tính chất tập
thể đã thể hiện rõ tầm quan trọng của chế độ lãnh đạo cá nhân, đảm bảo mọi vấn đề
được quyết định nhanh và Chủ tịch là người đứng đầu chịu trách nhiệm về các quyết
định của mình. Tuy nhiên, các trường đại học quốc gia của Nhật Bản cũng phải đối
mặt với thách thức trong việc lựa chọn được Chủ tịch trường là người có năng lực điều
hành, quản lý bởi vì hầu hết họ là những người làm công tác chuyên môn, giảng dạy
nên thiếu những kinh nghiệm, kỹ năng trong lãnh đạo điều hành. Về ngân sách: nguồn
kinh phí cho các trường đại học ở Nhật Bản chủ yếu được chia thành ba loại: kinh phí
chi cho hoạt động thường xuyên; kinh phí cạnh tranh dành cho hoạt động nghiên cứu
khoa học của mỗi cá nhân; nguồn trợ cấp cho sinh viên. Các trường đại học cần phải
đẩy mạnh cải cách, xây dựng các dự án để xin các nguồn tài trợ từ Chính phủ Nhật
Bản. Về nhân sự: Quy định không áp dụng chế độ công chức nhằm cho phép các
trường đại học quốc gia có thể áp dụng chế độ tuyển dụng, hệ thống thang bảng lương
và các điều kiện khác có liên quan đến nhân sự một cách linh hoạt hơn. Tất cả nhân
viên không thuộc biên chế của trường, khoa thì được bổ nhiệm bởi chủ tịch trường,
còn những chuyên viên cao cấp như tổng thư ký hay giám đốc do Bộ trưởng Bộ Giáo
dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ quyết định. Về quản lý chất lượng
đào tạo đại học, có bộ phận kiểm toán (kiểm toán nội bộ). Mỗi bộ phận kiểm toán cần
có ít nhất 02 kiểm toán viên có vị trí như giám đốc để kiểm toán toàn bộ các hoạt
động. Mặc dù hệ thống kiểm toán nội bộ không hoạt động hiệu quả ở tất cả các trường
đại học của Nhật Bản nhưng một số trường đã sử dụng kết quả kiểm toán một cách
tích cực để nâng cao chất lượng quản lý của mình. Ngoài ra, các trường đại học quốc
gia đều xây dựng hệ thống đánh giá nhân viên. Tuy nhiên, việc đánh giá này chỉ thông
qua thông tin của mỗi cá nhân được cập nhật trên hệ thống dữ liệu để đánh giá hoạt
động của đơn vị đó. Để kiểm định chất lượng giáo dục của các Tập đoàn Chính phủ
Nhật Bản thành lập Ủy ban đánh giá tập đoàn đại học quốc gia (trực thuộc MEXT)
dựa vào kết quả năm học và việc hoàn thành các kế hoạch trung hạn do tập đoàn đề ra.
Ủy ban thực hiện hoạt động đánh giá thông qua hoạt động tự đánh giá, giám sát của
mỗi trường đại học. Hoạt động đánh giá hàng năm của Ủy ban được dựa trên 5 cấp
độ/tiêu chí: 1) Mức độ cải tiến và tối ưu hóa tập đoàn; 2) Cải thiện các hạng mục tài
chính; 3) Tự giám sát, đánh giá và công bố thông tin (công khai, minh bạch thông tin);
4) Các vấn đề kinh doanh khác; 5) Nâng cao chất lượng nghiên cứu giáo dục và các
dịch vụ liên quan khác. Và đây chính là điều kiện để được xem xét cấp kinh phí cho
các hoạt động cụ thể theo kế hoạch trung hạn đã đề ra [3].
518
Israel, mô hình tự chủ đại học được xây dựng theo hai loại hình là quản trị hệ
thống và quản trị cấp trường. Quản trị hệ thống là do Hội đồng Giáo dục Đại học
(CHE) và Ủy ban Kế hoạch và Ngân sách (PBC) chịu trách nhiệm duy trì sự cân bằng
giữa tự do học tập và giám sát giáo dục đại học. Trách nhiệm của Hội đồng Giáo dục
Đại học là chịu trách nhiệm trước các hoạt động và chức năng của các trường đại học
như: kiểm định, lập kế hoạch, các lĩnh vực chịu trách nhiệm khác (Sử dụng các đối
tượng được bảo vệ như trường đại học, trường kỹ thuật, v.v). Số lượng thành viên
Hội đồng Giáo dục Đại học sẽ dao động từ 19-25, và hội đồng sẽ được lãnh đạo bởi
Bộ trưởng Bộ Giáo dục hiện tại. Các thành viên được bầu trong thời gian năm và phải
nỗ lực để thực hiện các mục tiêu của CHE và trách nhiệm của họ. Còn Ủy ban Kế
hoạch và Ngân sách (PBC) chịu trách nhiệm xác định ngân sách giáo dục đại học và
trình chính phủ phê duyệt. Ủy ban bao gồm bảy thành viên, bao gồm cả chủ tịch, năm
trong số đó là từ giới học thuật và các đại diện công cộng còn lại từ các lĩnh vực kinh
tế. Các thành viên của ủy ban được bổ nhiệm bởi Bộ trưởng Bộ Giáo dục, với sự đồng
ý của Chủ tịch PBC và sự chấp thuận của CHE. Các cuộc họp được thực hiện trong ba
năm với tùy chọn gia hạn thêm ba năm nữa. Quản trị cấp trường là các trường học
được điều hành theo mô hình tự chủ, có quyền ra quyết định, phân công trách nhiệm
và chịu trách nhiệm về kết quả. Người đứng đầu các trường đại học được quyền tự do
điều hành các hoạt động giáo dục của nhà trường theo cách mà họ nghĩ là phù hợp, chỉ
cần đảm bảo điều kiện phát triển năng lực học tập và nâng cao kết quả học tập của học
sinh. Người đứng đầu các trường học đã nắm bắt cơ hội này để huy động tối đa các
nguồn lực, khuyến khích các ý tưởng mới, điều hành quá trình đổi mới giáo dục trong
trường học và trong cộng đồng. Có thể nói người đứng đầu một trường học là một
“doanh nhân khởi nghiệp”, tức là người không chỉ tuân thủ các áp lực của thể chế (cải
thiện kết quả học tập của sinh viên), hoàn thành các trách nhiệm theo quy định, mà họ
còn phải đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy các sáng kiến thay đổi mà họ cho là
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng trường học [1].
Australia, trong mô hình tự chủ đại học đứng đầu Hội đồng trường có chức
năng nhiệm vụ: Chỉ định hiệu trưởng/chủ tịch, người điều hành công tác quản lý nhà
trường; Xem xét, chấp nhận sứ mệnh và định hướng chiến lược của trường ĐH cũng
như kinh phí hàng năm và kế hoạch phát triển; Xem xét và đánh giá hiệu quả họat
động của nhà trường; Thiết lập các chính sách và qui định phù hợp với yêu cầu pháp lý
và mong đợi của cộng đồng; Phê duyệt và kiểm soát hệ thống kiểm tra tính tự chịu
trách nhiệm bao gồm kiểm soát tổng thể các hoạt động; Xem xét đánh giá khả năng
quản lý và quản lý các nguy cơ nảy sinh trong toàn trường, bao gồm các họat
động/dịch vụ thương mại/kinh doanh; Xem xét và kiểm soát/định hướng các hoạt động
học thuật của nhà trường; Phê duyệt các hoạt động thương mại/dịch vụ. Để minh bạch
hóa công tác điều hành, chủ tịch HĐT sẽ chỉ định Hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng và
nhóm cộng sự điều hành sẽ phụ trách công tác quản lý thường nhật của nhà trường. Số
thành viên trung bình của hội đồng quản trị các trường ĐH Australia vào khoảng 19-
30 người (gồm: thành viên mặc nhiên được chỉ định hoặc bầu cử, Giảng viên, Cán bộ,
Sinh viên, Nghị viên, Ủy ban chuyên môn, Chỉ định từ Chính phủ/ Bộ Giáo dục và
Đào tạo). Tuy nhiên, việc thành lập Hội đồng trường có một số hạn chế như làm nảy
sinh một số tranh luận về phương thức làm việc của thành viên HĐT khi thành viên
hội đồng là tập hợp những người từ nhiều nguồn khác nhau (bên trong và ngoài
trường). Một số thành viên HĐT phải làm việc cật lực và có trách nhiệm rất cao trong
khi một số khác lại khá “thoải mái” khi tham gia xây dựng chiến lược và xét duyệt các
quyết sách quan trọng. Một số khác không đủ kiến thức chuyên môn về tài chính và
519
quản trị nên thường có tâm lý thuận theo số đông. Ngoài ra, do đây là công việc có
tính thiện nguyện (không hưởng lương trực tiếp) từ nhà trường nên một số thành viên
hội đồng chưa thể hiện tính tích cực khi tham gia. Và HĐT thường can dự khá nhiều
vào công việc điều hành hàng ngày của ban giám hiệu nên gây ra một số mâu thuẫn
không đáng có [4].
Tóm lại, mô hình tự chủ đại học ở Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Israel,
Australia vận hành tốt, hoạt động hiệu quả cho nên đã đa dạng hóa các hoạt động
Giáo dục của các nhà trường. Đồng thời, giúp hệ thống Giáo dục Đại học của các quốc
gia này luôn đứng hàng đầu thế giới. Sở dĩ, đạt được thành quả như vậy là do các
trường Đại học ở Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Israel, Australia đã thực hiện mô hình
tự chủ theo hướng tự chủ tuyệt đối. Trong mô hình tự chủ đại học, Hội đồng quản trị
có quyền lực tối cao, giám sát chính sách đảm bảo chất lượng Giáo dục Đại học.
Thành phần của hội đồng quản trị khá đa dạng gồm: thành viên mặc nhiên được chỉ
định hoặc bầu cử, Giảng viên, Cán bộ, Sinh viên, Nghị viên, Ủy ban chuyên môn, Chỉ
định từ Chính phủ/ Bộ Giáo dục và Đào tạo là những người có danh tiếng, uy tín,
thành công đặc biệt về một lĩnh vực nào đó. Tuy nhiên, bên cạnh thành tích đạt được
các mô hình tự chủ này còn một số hạn chế như: HĐT thường can dự khá nhiều vào
công việc điều hành hàng ngày của ban giám hiệu nên gây ra một số mâu thuẫn không
đáng có; thành lập Hội đồng trường làm nảy sinh một số tranh luận về phương thức
làm việc của thành viên HĐT khi thành viên hội đồng là tập hợp những người từ nhiều
nguồn khác nhau; một số thành viên hội đồng chưa thể hiện tính tích cực khi tham gia
HĐT; áp dụng cơ chế tuyển dụng nhân sự theo hợp đồng cản trở các giảng viên hợp
đồng tiếp cận các cơ hội bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao chất lượng và cải thiện thu
nhập Đây chính là bài học kinh nghiệm về xây dựng mô hình tự chủ ở các trường
Đại học Việt Nam.
2.2. Những đề xuất thay đổi mô hình tự chủ Đại học cho Việt Nam
Để thực hiện mô hình tự chủ đại học hiệu quả trong thời đại công nghệ phát
triển, đồng thời đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, tác giả xin đề xuất
một số nhóm giải pháp như sau:
Thứ nhất, các trường Đại học Việt Nam cần xây dựng mô hình tự chủ theo
hướng tự chủ tuyệt đối như Hoa Kỳ, Tập đoàn hóa trong tự chủ đại học như Canada,
Tổng công ty/tập đoàn đại học quốc gia của Nhật Bản Bởi các mô hình đã vận hành
tốt, hoạt động hiệu quả trong hệ thống Giáo dục Đại học ở các quốc gia trên. Tuy
nhiên, phải căn cứ cụ thể vào thực trạng nguồn nhân lực cũng như các điều kiện về cơ
sở vật chất của nhà trường, điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, các trường Đại
học Việt Nam có thể lựa chọn mô hình tự chủ phù hợp, khả năng thành công cao để áp
dụng vào hệ thống giáo dục toàn diện của nhà trường. Trên cơ sở biết được ưu điểm
cũng như hạn chế của từng mô hình tự chủ các trường Đại học phải có các giải pháp hợp
lý nhằm khắc phục những hạn chế và phát huy tối đa ưu điểm của mô hình tự chủ đã lựa
chọn, có như vậy mới đa dạng hóa các hoạt động Giáo dục của nhà trường.
Thứ hai, đa dạng hóa thành phần Hội đồng trường là những người có danh
tiếng, uy tín, thành công đặc biệt về một lĩnh vực nào đó như Hoa Kỳ, Australia thành
viên HĐT gồm thành viên mặc nhiên được chỉ định hoặc bầu cử, Giảng viên, Cán bộ,
Sinh viên, Nghị viên, Ủy ban chuyên môn, Chỉ định từ Chính phủ/ Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Bởi các thành viên này định hướng chiến lược của trường ĐH cũng như kinh
phí hàng năm và kế hoạch phát triển, đánh giá họat động của nhà trường, đánh giá khả
520
năng quản lý và quản lý các nguy cơ nảy sinh trong toàn trường, bao gồm các họat
động/dịch vụ thương mại/kinh doanh Hơn nữa những người có danh tiếng, uy tín
tham gia Hội đồng trường khắc phục được tình trạng số tranh luận về phương thức làm
việc của thành viên HĐT, có trách nhiệm cao khi tham gia xây dựng chiến lược và xét
duyệt các quyết sách quan trọng
Thứ ba, Hội đồng trường không nên can dự khá nhiều vào công việc điều hành
hàng ngày của Ban giám hiệu bởi sẽ gây ra một số mâu thuẫn không đáng có làm cản
trở hiệu quả hoạt động giáo dục đào tạo của nhà trường.
Thứ tư, trong mô hình tự chủ các trường Đại học Việt Nam cần thiết lập bộ
phận quản lý chất lượng đào tạo để đánh giá toàn bộ các hoạt động giáo dục của nhà
trường. Việc đánh giá cán bộ, nhân viên không chỉ đánh giá qua thông tin của mỗi cá
nhân được cập nhật trên hệ thống dữ liệu mà phải đánh giá thông qua hiệu quả công
việc được giao.
Thứ năm, trong mô hình tự chủ Hiệu trưởng là những người có kinh nghiệm, kỹ
năng trong lãnh đạo điều hành, đảm bảo mọi vấn đề được quyết định nhanh. Do vậy,
phải tăng quyền quyết định cho Hiệu trưởng và giảm các quyết định mang tính chất
tập thể. Để Hiệu trưởng là người đứng đầu chịu trách nhiệm về các quyết định của
mình.
Thứ sáu, xây dựng mô hình tự chủ đại học định hướng thị trường cao, tức là tạo
ra môi trường cạnh tranh, khuyến khích nghiên cứu khoa học, đổi mới và sáng tạo, gắn
kết chặt chẽ và bền vững với cộng đồng, quan hệ mật thiết với nền kinh tế, bám sát
nhu cầu của thị trường lao động. Có như vậy các trường Đại học Việt Nam mới huy
động được nguồn lực bên ngoài để bù vào ngân sách nhà nước bị cắt giảm.
3. Kết luận
Những năm qua, hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam đã có bước phát triển
đáng kể, một số trường lọt top các trường đại học hàng đầu thế giới như Đại học Quốc
gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP.HCM. Tuy nhiên, để tự chủ đại học hiệu quả đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và hội nhập quốc tế, vẫn là bài toán khó của
nhiều trường. Do vậy, nghiên cứu và tìm hiểu mô hình tự chủ ở một số nước như: Hoa
Kỳ, Canada, Nhật Bản, Israel, Australia có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các
trường Đại học Việt Nam. Bởi nghiên cứu về các mô hình tự chủ đại học ở các quốc
gia này sẽ giúp Ban lãnh đạo các trường Đại học Việt Nam nhận thức được các mặt
tích cực cũng như mặt hạn chế của mô hình tự chủ đại học mà một số nước trên thế
giới đã triển khai. Từ đó, các trường Đại học Việt Nam có thể lựa trọn mô hình tự chủ
đại học phù hợp, có thể áp dụng thành công vào hệ thống giáo dục toàn diện của nhà
trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Kinh nghiệm về mô hình quản trị đại học ở
Israel, Khai thác từ truy cập ngày 7/5/2019.
[2] Lê Ngọc Hùng (2019), Tập đoàn hóa đại học công lập ở một số nước và bài học
kinh nghiệm quản trị đại học ở Việt Nam, Khai thác từ
truy cập ngày 21/10/2019.
521
[3] Phan Thị Lan Hương (2019), Trao quyền tự chủ đại học của Nhật Bản và kinh
nghiệm đối với Việt Nam, Khai thác từ https://tcnn.vn, truy cập ngày 02/12/2019.
[4] Tạp chí FPT Aptech (2007), Tự trị ĐH: Câu chuyện từ Australia, Khai thác từ
https://aptech.fpt.edu.vn, truy cập ngày 13/01/2007.
[5] Nguyễn Đồng Anh Xuân (2019), Quản trị đại học: Kinh nghiệm của Hoa Kỳ và
bài học cho Việt Nam, Khai thác từ truy cập ngày
04/08/2019.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_hinh_tu_chu_trong_giao_duc_dai_hoc_o_hoa_ky_canada_nhat_b.pdf