Trưng cầu ý dân là một chế định xã hội có cùng tính chất với điều tra dư luận xã hội nhưng ở mức độ cao hơn nhiều, nếu xét về mức độ thực hiện chế định dân chủ trực tiếp. Có thể nêu một số công thức điều chỉnh pháp lý cho hoạt động giám sát xã hội trực tiếp rất đặc thù này như sau: 1/ Chế định trưng cầu ý dân được quy định trong Hiến pháp và có thể thực hiện những quy định của Hiến pháp một cách trực tiếp mà không cần phải có một đạo luật riêng; 2/ Chế định trưng cầu ý dân được quy định về nguyên tắc trong Hiến pháp và được quy định cụ thể trong một đạo luật riêng về trưng cầu ý dân.; 3/ Chế định trưng cầu ý dân không được quy định trong Hiến pháp và trong các đạo luật nhưng lại thuộc thẩm quyền quy định của chính quyền địa phương về trưng cầu ý dân ở các địa phương; 4/Chế định trưng cầu ý dân không được quy định trong Hiến pháp và pháp luật, cũng không được xem là một chế định áp dụng thường xuyên mà được xem là một biện pháp nhất thời áp dụng đối với từng trường hợp cụ thể, do nhu cầu nhất thời đòi hỏi.
68 trang |
Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1121 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiếp (Đảng bộ TAND cấp quận, huyện trực thuộc tỉnh uỷ hoặc thành uỷ; Đảng bộ TAND cấp tỉnh trực thuộc Đảng uỷ khối Nội chính trung ương).
c) Về cơ chế chỉ đạo công tác nghiệp vụ của toà án cấp trên đối với các toà án cấp dưới và vai trò tổng kết công tác xét xử của Toà án nhân dân tối cao.
Trong thời gian tới, công tác chỉ đạo nghiệp vụ của toà án cấp trên đối với toà án cấp dưới phải được tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn đường lối xét xử hoặc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, thông tư hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao có vai trò rất quan trọng. Khi soạn thảo các văn bản hướng dẫn của ngành, Toà án nhân dân tối cao cần mời đại biểu các cơ quan đã ban hành văn bản đó, hoặc phương án khả thi hơn là cần ban hành các thông tư liên ngành nhằm bảo đảm tính thống nhất trong cách hiểu và cách áp dụng văn bản đó trong thực tiễn. Cũng đã đến lúc Toà án nhân dân tối cao cần có kế hoạch nghiên cứu, làm sáng tỏ về lí luận và thực tiễn vấn đề sử dụng án lệ trong hoạt động xét xử của tòa án phục vụ cho việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án trong thời gian tới.
Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm sát
Trước mắt, vấn đề đặt ra là cần xây dựng cơ chế hữu hiệu để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trên cơ sở xác định đúng phạm vi và các hình thức thực hiện, tạo các bảo đảm cần thiết cho hoạt động của Viện kiểm sát trong các lĩnh vực đó.
Đối với chức năng công tố của Viện kiểm sát, vấn đề vẫn tiếp tục cần làm rõ là giới hạn của công tố, tương quan giữa công tố và tư tố. Cần thiết phải đổi mới theo hướng đề cao hơn nữa vai trò và quyền tự định đoạt của các bên đương sự ( cả trong lĩnh vực hình sự và kinh tế- dân sự), mở rộng hơn nữa phạm vi tư tố đi đôi với việc tạo ra các bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố.
Trong lĩnh vực tư pháp phi hình sự, trong khi pháp luật hiện hành vẫn đang trao cho Viện kiểm sát quyền kiểm sát hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự thì vai trò của Viện kiểm sát chỉ nên dừng ở đó, chỉ nên thực hiện chức năng kiểm sát tư pháp theo đúng nghĩa của nó mà không thực hiện bất cứ hoạt động tố tụng nào thuộc phạm trù quyền hạn, nghĩa vụ của các bên.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp hình sự đã tương đối rõ nhưng việc kiểm sát hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự thì mới chỉ được nêu, thiếu những hình thức và cơ chế hợp lý để thực hiện có hiệu quả. Đây là vấn đề cần tiếp tục làm sáng tỏ trong thời gian tới.
Trên tinh thần tiếp tục cải cách tư pháp nói chung, đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nói riêng, sự cải tổ các cơ quan kiểm sát tiến hành theo mô hình Viện công tố với chức năng phát hiện điều tra, truy tố đưa người phạm tội ra xét xử là hướng rất cần được quan tâm nghiên cứu.
Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra
Mô hình tổng thể hiện nay về tổ chức hệ thống cơ quan điều tra là tương đối phù hợp với yêu cầu và thực trạng cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ chung của hoạt động tư pháp ở nước ta. Mô hình này cho thấy, cơ quan điều tra không hoàn toàn nguyên nghĩa là cơ quan tư pháp. Từ đây, sẽ có vấn đề về sự cần thiết phải xác định rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý và chỉ đạo hoạt động điều tra, cũng như sự cần thiết phải xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan điều tra và các điều tra viên trong các mối quan hệ hành chính và quan hệ nghiệp vụ tư pháp. Theo hướng này, pháp luật tố tụng hình sự sẽ không điều chỉnh những vấn đề về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ tố tụng, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của cơ quan điều tra cũng như của điều tra viên nhưng rất cần có một văn bản của Chính phủ (nghị định) quy định cụ thể những nội dung trên, đặc biệt là về chức danh điều tra viên.
Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan Thi hành án
Yêu cầu về nâng cao hiệu quả của hoạt động thi hành án và về tính đồng bộ của hệ thống tư pháp đang đòi hỏi phải đặt vấn đề đổi mới toàn diện tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án. Về cơ bản, có thể nêu một số giải pháp sau đây:
1) Hoàn thiện mô hình pháp luật thi hành án theo hướng xây dựng hai bộ luật riêng biệt về thi hành án: Bộ luật Thi hành án dân sự và Bộ luật Thi hành án hình sự, trên cơ sở thừa nhận tính độc lập do điều chỉnh các quan hệ pháp luật thi hành án đặc thù của pháp luật thi hành án.
2) Kiện toàn hệ thống cơ quan thi hành án theo hướng tập trung đầu mối, phân công rõ ràng, trách nhiệm cụ thể.
3) Đổi mới cơ chế hoạt động thi hành án theo hướng quy định cụ thể trách nhiệm phối, kết hợp giữa các cơ quan thi hành án, giữa các cơ quan thi hành án với các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan tư pháp, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc hỗ trợ, phối hợp tạo các điều kiện cần thiết để cơ quan thi hành án thực hiện nhiệm vụ của mình
4) Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thi hành án theo hướng tăng cường sự kiểm tra, giám sát của toà án đối với thi hành án
5) Từng bước xã hội hoá việc thi hành án.
3. 4. Mô hình tổng thể tổ chức và hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương
3.4.1. Khái quát về thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
Chế định Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân không bị thay đổi trong khi nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung vào Hiến pháp tại lần sửa đổi vào cuối năm 2001. Cùng với việc bổ sung định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung) mới ghi nhận nguyên tắc phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trung ương mà chưa đề cập tới nguyên tắc phân công quyền lực Nhà nước theo chiều dọc trong mối quan hệ giữa trung ương và địa phương. Một số quy định hiện hành của Hiến pháp về chính quyền địa phương chưa hoàn toàn nhất quán.
Một thành tựu của công tác lập pháp năm 2003 là việc ban hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, Luật chưa có những cải cách cơ bản để giải quyết các vấn đề đặt ra với chính quyền địa phương hiện nay là mô hình tổ chức và phương thức hoạt động.
Hiện nay, ở Việt Nam đang áp dụng mô hình chính quyền địa phương là cánh tay nối dài của Nhà nước trung ương. Ưu điểm của nó là bảo đảm tính thống nhất cao độ, song lại chưa phát huy được tính sáng tạo của địa phương một cách thực sự. Mô hình tổ chức này là một trong những nguyên nhân dẫn đến tính hình thức và sự thiếu năng động trong hoạt động của Hội đồng nhân dân. Mặt khác, chính sự mâu thuẫn nội tại của mô hình chính quyền địa phương đã dẫn đến bất cập trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở địa phương.
3.4.2. Nguyên tắc xác định mô hình tổng thể tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
Mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cần được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc sau:
a) Thừa nhận lợi ích của địa phương trên cơ sở phân biệt lợi ích quốc gia và lợi ích của cộng đồng lãnh thổ nhưng không theo xu thế tuyệt đối hoá lợi ích của địa phương.
b) Phát huy dân chủ; tính độc lập và trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc giải quyết các vấn đề có ý nghĩa địa phương.
c) Bảo đảm chủ quyền quốc gia và lợi ích quốc gia. Để duy trì tính tối cao của quyền lực Nhà nước, cần xác định những vấn đề thuộc thẩm quyền đặc biệt của trung ương.
d) Bảo đảm sự tương thích giữa khối lượng thẩm quyền và năng lực thực hiện của các chủ thể. Tiêu chí để xác định năng lực thực tế là mức độ đáp ứng các nhu cầu, đòi hỏi của nhân dân.
đ) Bảo đảm sự liên kết và phối hợp giữa trung ương và địa phương: sự tham gia của địa phương vào việc quyết định các vấn đề có liên quan đến địa phương; hỗ trợ từ phía trung ương đối với một số hoạt động của địa phương; sự phối hợp trong việc thực hiện những thẩm quyền chung của cả trung ương và địa phương hoặc những thẩm quyền chưa được pháp luật giao cụ thể cho một cấp cụ thể.
3.4.3. Đề xuất mô hình tổng thể về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Yêu cầu của mô hình tổng thể tổ chức và hoạt động của Chính quyền địa phương
Trong điều kiện hiện nay, đối chiếu với các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc thiết kế mô hình chính quyền địa phương phải đáp ứng các yêu cầu:
a) Bảo đảm tính độc lập tương đối của chính quyền địa phương thông qua việc khẳng định tính đại diện của Hội đồng nhân dân. Giải quyết dứt điểm mối quan hệ vốn không rõ ràng giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Nếu phương án coi Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho cộng đồng dân cư được chấp thuận thì cần khắc phục tình trạng “phân thân” của Uỷ ban nhân dân như hiện nay.
b) Phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương. Việc phân định thẩm quyền phải bảo đảm nguyên tắc bình đẳng của các địa phương có quy chế ngang nhau và mặt khác, thể hiện đặc thù của mỗi loại đơn vị hành chính –lãnh thổ. Như vậy, cơ cấu hành chính – lãnh thổ của Việt Nam sẽ theo mô hình “không tương xứng”, có nghĩa là các đơn vị ở cùng một cấp hành chính có thể có quy chế khác nhau.
c) Xác định nguyên tắc về mối quan hệ giữa các cấp chính quyền địa phương. Nếu theo mô hình tổ chức chính quyền địa phương được dự kiến ở đây thì Hội đồng nhân dân hoạt động theo sự tín nhiệm của cử tri và từ đó, có tính độc lập trong chừng mực nhất định. Vì vậy, trong mối quan hệ giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau, cần phát huy yếu tố dân chủ.
d) Khai thác và thể hiện những giá trị của văn hoá truyền thống để làm rõ đặc thù và màu sắc riêng của mô hình chính quyền địa phương Việt Nam, nhất là cơ sở.
Mô hình dự kiến
Đối với việc cải tổ chính quyền địa phương ở nước ta, có thể có ba phương án: thứ nhất, cải cách mang tính tạm thời trên cơ sở giữ nguyên các quy định về vị trí, tính chất, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương và chỉ đổi mới phương thức phân cấp; thứ hai, cải tổ một cách cơ bản và bắt đầu từ việc nhìn nhận lại địa vị hiến định của các cơ quan Nhà nước địa phương; thứ ba, đổi mới theo lộ trình và chấp nhận những bài học từ sự thử nghiệm theo các bước.
Trong bối cảnh của Việt Nam, đổi mới chính quyền địa phương nên theo cách thứ ba.
Sau đây là dự kiến mô hình tổ chức và hoạt động của từng cấp chính quyền địa phương.
Cấp tỉnh:
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được thiết lập ở tất cả các đợn vị hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được xác định là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra và có thể bị cử tri bãi nhiệm theo tiêu chí mất tín nhiệm.
Về việc quyết định chủ trương, biện pháp phát huy tiềm năng của địa phương, chỉ nên áp dụng với địa bàn có đặc thù hay cho từng nhóm đơn vị hành chính –lãnh thổ thay vì cách quy định như hiện nay là các cấp Hội đồng nhân dân và tất cả Hội đồng nhân dân ở cùng một cấp đều có thể đưa ra chủ trương mang tính sáng tạo.
Là cơ quan đại diện của cộng đồng dân cư, chức năng chính của Hội đồng nhân dân là tiếp nối hoạt động quản lý Nhà nước ở địa phương. Hội đồng nhân dân có thể được trao thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Hình thức hoạt động chính của Hội đồng nhân dân vẫn là kỳ họp và Luật quy định số lượng tối thiểu kỳ họp bắt buộc phải được tiến hành.
Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân với chức năng chính là triển khai các nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Như vậy, bản thân Uỷ ban nhân dân là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân và nên bỏ xu hướng hiện nay là tăng cường hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân; thực hiện chế độ kiêm nhiệm thành viên Uỷ ban nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân (vì Uỷ ban nhân dân được coi là cơ quan thường trực).
Theo mô hình này, Hội đồng nhân dân sẽ tập trung vào chức năng quản lý địa phương, chức năng giám sát, đặc biệt là cần tăng cường vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân với cơ quan tư pháp địa phương là cơ quan Điều tra, Toà án và Viện kiểm sát.
Tổ chức Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ theo cách “không đồng loạt”, có nghĩa là sẽ có Quy chế tổ chức và hoạt động riêng cho Hội đồng nhân dân nông thôn và đô thị; cho các khu kinh tế đặc biệt gồm hai loại: khu phát triển và khu đang phát triển; cho địa bàn hết sức đặc thù là Thủ đô.
Cấp huyện:
Đối với cấp huyện, cần khai thác tối đa mô hình tổ chức bộ máy theo nguyên tắc “không đồng loạt”, có nghĩa là các đơn vị cùng cấp không nhất thiết phải có bộ máy như nhau. Tuy nhiên, nếu như đối với cấp tỉnh, sự phân biệt này được dựa theo tiêu chí về nhóm đơn vị hành chính –lãnh thổ có chung một số đặc điểm thì đối với huyện, sự “không đồng loạt” được quyết định dựa theo đặc thù của mỗi tỉnh là đơn hành chính cấp trên trực tiếp của huyện. Như vậy, trước hết, cần đa dạng hoá các mô hình tổ chức của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện và chấp nhận sự thử nghiệm; tiến tới sau này có thể mạnh dạn giao cho một số đơn vị cấp tỉnh đề xuất mô hình tổ chức của các đơn vị cấp huyện thuộc địa bàn tỉnh trong Quy chế tổ chức và hoạt động của tỉnh và trình cấp có thẩm quyền của trung ương phê duyệt.
Sau đây là một số mô hình tổ chức ở cấp huyện:
a) Đối với các tỉnh phát triển về kinh tế-xã hội: Tại đây, có thể áp dụng mô hình “Hội đồng – Uỷ ban” có nghĩa là Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện và Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân.
b) Đối với các tỉnh đang phát triển: Tại đây, có thể áp dụng mô hình “Chủ tịch Uỷ ban – Hội đồng” có nghĩa là Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được nhập vào thành một cơ quan và Chủ tịch Hội đồng nhân dân đồng thời kiêm nhiệm chức năng của Chủ tịch Uỷ ban.
c) Đối với các tỉnh, thành phố có quy chế đặc thù: Cần có Quy chế riêng cho từng nơi và mỗi tỉnh, thành phố có thể có mô hình tổ chức riêng.
Cấp xã:
Việc thành lập Hội đồng nhân dân ở các địa bàn cấp xã (mà nhất là xã) là cần thiết. Hội đồng nhân dân phải được đề cao tính đại diện để thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề liên quan đến sự phát triển địa bàn và tổ chức đời sống dân cư; đồng thời, tổ chức thực hiện các văn bản của cấp trên. Đối với hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã, cần đề cao và phát huy tính dân chủ; thu hút sự tham gia rộng rãi của người dân vào việc soạn thảo và chuẩn bị nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Việc lấy ý kiến nhân dân, các đối tượng chịu sự thi hành trực tiếp của văn bản vào nội dung của dự thảo là nhất thiết và phải có cơ chế giải trình về lý do tiếp thu, hay không tiếp thu các ý kiến đóng góp. Như vậy, quy trình ban hành quyết định của Hội đồng nhân dân cấp xã sẽ là minh chứng đích thực của việc: dân bàn bạc, quyết định và Hội đồng nhân dân ra quyết định.
Với vị trí và chức năng như vậy, cần cải tiến quy định về bầu cử đối với Hội đồng nhân dân cấp xã. Không nên áp dụng mô hình bầu cử chung cho cả ba cấp như hiện nay.
Là cơ quan gần dân, hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã phải thường xuyên và chuyên nghiệp. Vì vậy, không cần thiết có Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã. Bảo đảm cho hoạt động của Hội đồng nhân dân là một chức vụ hành chính địa phương (có thể gọi là xã trưởng) do nhân dân trực tiếp bầu cùng với các công chức địa phương giúp việc đồng thời cho người này và cho Hội đồng nhân dân. Bộ máy công chức giúp việc do Hội đồng nhân dân quyết định căn cứ vào đặc điểm của địa bàn. Không nhất thiết phải có quy định thống nhất về số lượng công chức xã như hiện nay
3.5. Mô hình tổng thể các cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước
3.5.1. Vị trí của giám sát và các cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong mọi quốc gia dân chủ, cơ chế kiểm tra giám sát quyền lực Nhà nước luôn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong tổ chức và thực thi công quyền. Xây dựng một cơ chế kiểm soát hợp lý, đầy đủ và có hiệu lực luôn là một trong những bảo đảm cho guồng máy quyền lực hoạt động hết công suất đồng thời tránh được tình trạng bộ máy quyền lực vận hành ngoài tầm kiểm soát của người chủ quyền lực dẫn đến quan liêu, tha hóa quyền lực.
Vị trí, vai trò của giám sát và các cơ chế kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định xuất phát từ hai yêu cầu chủ yếu: yêu cầu thứ nhất liên quan đến tính thống nhất về bản chất của quyền lực Nhà nước ở nước ta. Yêu cầu thứ hai liên quan đến việc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước
Tính tất yếu của kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước cũng tất yếu kéo theo nhu cầu xây dựng các cơ chế tương ứng để thực thi nó trong thực tiễn. Về nguyên tắc, ở đâu có quyền lực thì ở đó cần đến sự giám sát quyền lực với mục tiêu bảo đảm phát huy dân chủ, sao cho nhân dân- người chủ của quyền lực- có thể kiểm soát được toàn bộ quá trình thực hiện quyền lực. Điều đó đặt ra yêu cầu về tính đa dạng, hợp lý và khoa học của các cơ chế kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước.
3.5.2. Khái quát về thực trạng các cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta hiện nay.
Trên thực tế, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta được thiết lập ngay từ khi Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời. Cho đến nay, trên thực tế chúng ta có một hệ thống kiểm tra, giám sát khá phức tạp bao gồm hai bộ phận: các cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên trong bộ máy Nhà nước và các cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài bộ máy Nhà nước. Tuy nhiên, hệ thống kiểm tra, giám sát nói trên đã không đem lại hiệu quả như mong muốn. Rõ ràng là, mặc dù về mặt tổ chức, chúng ta có cả một hệ thống kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước khá đồ sộ nhưng một mặt chúng ta vẫn còn thiếu những thiết chế kiểm tra, giám sát ở những khâu trọng điểm. Mặt khác, vấn đề kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước ở nước ta vẫn chưa tìm ra được một cơ chế thích hợp khả dĩ có thể đem lại hiệu quả.
3.5.3. Đề xuất mô hình tổng thể các cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Xuất phát từ các đặc trưng và yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, có thể thấy rằng mô hình tổng thể các cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước phải được thiết kế sao cho có khả năng thể hiện và đảm bảo một cách tốt nhất các yêu cầu sau: 1) Đề cao giá trị dân chủ, đảm bảo nguyên tắc quyền lực thực sự của dân, do dân, vì dân; 2) Đảm bảo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; 3) Tôn trọng giá trị pháp luật, nguyên tắc pháp chế, đảm bảo tính pháp lý của việc tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước; 4) Tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân; 5) Đảm bảo sự thống nhất nội tại, tính hệ thống của cơ chế kiểm tra, giám sát, đối với việc tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước trên cơ sở đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước, đồng thời kiểm soát được việc tổ chức, thực hiện quyền lực thông qua các kênh khác nhau.
Mô hình kiểm tra, giám sát trong bộ máy Nhà nước
a) Đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc hội
Quá trình hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc hội đáp ứng những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay cần phải được tiến hành theo những hướng sau:
- Nâng cao tính chuyên nghiệp của Quốc hội và đại biểu Quốc hội
- Tăng số lượng các ủy ban của Quốc hội và đảm bảo tính chuyên trách cũng như chất lượng hoạt động của các ủy ban đó
- Nâng cao tính tích cực của đại biểu Quốc hội trong các hoạt động liên quan đến nhiệm vụ đại biểu bao gồm cả hoạt động trực tiếp giám sát hoặc giám sát thông qua việc tiếp nhận ý kiến phản ánh của cử tri đối với hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước của các cơ quan Nhà nước.
- Hoàn thiện quy trình thực hiện các hình thức giám sát của Quốc hội, đảm bảo cho hoạt động giám sát được tiến hành theo một trình tự, cơ chế khép kín, có cơ sở pháp lý cho việc xử lý đối với những trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật. Rất cần phải tạo điều kiện cần thiết để thực hiện hình thức giám sát tại chỗ (kiểm tra tại chỗ) và có cơ chế xử lý nhanh và hữu hiệu các trường hợp vi phạm.
- Về mặt tổ chức cần tiến tới xây dựng một thiết chế chuyên biệt có tính độc lập tương đối với Quốc hội để thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội. Ngoài ra, cần nghiên cứu thành lập các ban đại diện hay người đại diện có thẩm quyền của Quốc hội ở các khu vực, địa phương để tăng thêm sự sát thực và hiệu quả của sự giám sát tối cao của Quốc hội.
b) Đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân.
Trước mắt, để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của HĐND cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Xác lập mối quan hệ lãnh đạo đúng đắn giữa cấp uỷ Đảng và HĐND.
- Tiếp tục kiện toàn cơ cấu tổ chức của HĐND nhằm bảo đảm cho cơ quan này đảm nhiệm tốt vai trò giám sát của mình.
- Xây dựng một luật về giám sát của HĐND. Trong văn bản luật về hoạt động giám sát của HĐND, cần thiết phải quy định các vấn đề như: các chủ thể thực hiện thẩm quyền giám sát; các đối tượng chịu sự giám sát của HĐND; giới hạn giám sát, quyết định, hành vi của đối tượng chịu giám sát; hậu quả của giám sát và chế tài đối với các hành vi không thực hiện các quy định pháp luật về giám sát; thủ tục giám sát.
c) Đổi mới cơ chế kiểm tra, thanh tra của Chính phủ
Cần hoàn thiện mô hình kiểm tra, thanh tra của Chính phủ trên những vấn đề sau:
1) Mở rộng phạm vi và thẩm quyền. Hoạt động kiểm tra, thanh tra của Chính phủ trong tình hình mới phải bao quát những nội dung sau:
- Kiểm tra, thanh tra hoạt động công vụ.
- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện thể chế hành chính.
- Kiểm tra, thanh tra bộ máy hành chính.
- Kiểm tra, thanh tra tính chính xác của quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan, người có thẩm quyền.
- Kiểm tra, thanh tra người có thẩm quyền trong hoạt động quản lý (công chức, viên chức Nhà nước).
2) Tiếp tục hoàn thiện tổ chức và cơ sở pháp lý của hệ thống thanh tra trong lĩnh vực hành chính Nhà nước. Nghiên cứu tổ chức cơ quan chuyên thực hiện chức năng thanh tra theo hai cách: hoặc là, chỉ có cơ quan thanh tra của Chính phủ; hoặc là, thành lập cơ quan thanh tra của Quốc hội. Tuy nhiên, theo phương án này, cho dù Quốc hội có thành lập tổ chức thanh tra thì theo bản chất của quản lý, cơ quan thực hiện chức năng hành pháp vẫn phải có cơ quan kiểm tra, thanh tra riêng của mình để thực hiện việc kiểm tra chu trình của quản lý. d) Đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát của Toà án nhân dân:
Hoạt động kiểm tra, giám sát của Tòa án nhân dân trước hết là hoạt động tự kiểm tra việc thực thi quyền lực Nhà nước trong phạm vi hệ thống các cơ quan tòa án. Hoạt động kiểm tra này được tiến hành chủ yếu thông qua kiểm tra chất lượng các bản án để phát hiện ra những dấu hiệu của sự lạm quyền, vi phạm pháp luật của đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử. Từ phương diện này có thể thấy việc tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử và việc xác định rõ ràng cơ chế chịu trách nhiệm pháp lý của đội ngũ thẩm phán là mô hình thích hợp nhất đảm bảo hiệu quả của hoạt động tự kiểm tra trong hệ thống cơ quan tòa án.
Với tính cách là cơ quan xét xử duy nhất ở nước ta, tòa án có một vị trí hết sức quan trọng trong đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, bảo vệ nền pháp chế XHCN, giải quyết các tranh chấp trong đời sống xã hội và cũng do vậy, tòa án giữ vị trí đặc biệt trong cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước, trước hết là giám sát các hoạt động hành chính Nhà nước.
Trước mắt, cần tăng thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính cho tòa án theo hướng đưa nhiều nhất các khiếu kiện hành chính vào giải quyết theo trình tự tố tụng của Tòa hành chính; xây dựng một quy trình cụ thể, khả thi trong quan hệ giải quyết các sai sót trong quyết định, hành vi hành chính giữa tòa án và cơ quan có quyết định, hành vi hành chính sai sót; tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm tra, giám sát của tòa án đối với hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, đặc biệt là hoàn chỉnh các quy định pháp luật về cơ chế chịu trách nhiệm pháp lý của các cơ quan hành chính khi có phán quyết của tòa án về các quyết định, hành vi hành chính sai phạm, hoàn chỉnh các quy định pháp luật là nội dung hợp pháp của các quyết định hành chính như: luật hành chính, luật dân sự, luật lao động. . . đi đôi với hoàn thiện cơ chế phán quyết các văn bản quy phạm pháp luật hành chính trái pháp luật theo một trong những hướng khả thi và phù hợp với yêu cầu chung của Nhà nước pháp quyền hiện nay là xây dựng Tòa án Hiến pháp để giám sát tính hợp hiến của các văn bản pháp luật; đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng và quy hoạch đội ngũ cán bộ Toà hành chính giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng.
đ) Về việc xây dựng cơ chế kiểm tra tính hợp hiến (hay là cơ chế bảo hiến) ở nước ta
Qua phân tích, chúng tôi kiến nghị nghiên cứu để thành lập một cơ quan kiểm tra tính hợp hiến chuyên trách – Toà án Hiến pháp, với chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp với các nhiệm vụ chính sau đây:
a. Phán quyết về mức độ vi hiến của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mo hinh NNPQ... (Tom tat).doc