Cần phải chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tăng cả về số lượng và chất lượng của lao động trong ngành công nghiệp, giảm về số lượng lao động trong ngành nông nghiệp.
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Cải cách phương pháp đào tạo, gắn việc dạy lý thuyết với thực hành, khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học. Nhằm tăng lao động lành nghề, lao động có tri thức để tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động chất xám, lao động có kỹ thuật.
Thường xuyên đào tạo mới và đào tạo lại lao động, để đáp ứng nhu cầu trên thị trường sức lao động, đồng thời phải đảm bảo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với nhà trường trong việc đào tạo.
29 trang |
Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất tạo ra giá trị thặng dư hay lợi nhuận vẫn là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn là chế độ xã hội dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê...”. Điều này cho thấy lý luận giá trị thặng dư của Mác trong điệu kiện mới của thời đại được khẳng định.
II. Thực trạng sản xuất giá trị thặng dư ở nước ta
Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là việc phát triển nguồn nhân lực; khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế; áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động; và việc phân phối giá trị thặng dư.
1.Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, số người trong độ tuổi lao động chiếm phần đa số ngoài ra còn phải kể đến hàng triệu người già vẫn còn khả năng lao động và mong muốn được lao động. Thêm vào đó người lao động Việt Nam lại cần cù, chăm chỉ, năng động có khả năng thích ứng thị trường cao, nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật mới ứng dụng vàậ sản xuất kinh doanh. Tuy đây là một thuận lợi lớn của nước ta song chất lượng lao động và trình độ kỹ thuật, tay nghề của lao động Việt Nam còn thấp, cơ cấu ngành không hợp lý, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động không có việc làm cao. Muốn khắc phục nhược điểm này ta phải biết tăng chất lượng của nguồn lao động như nâng cao trình độ học vấn của nhân nhất là phổ cập tiểu học, trung học cơ sở, mở trường dạy nghề, học phải gắn với thực hành. Trước tình hình đó Đảng đã có chủ trương: “ Xã hội hoá giáo dục nhằm đa dạng hoá các loại hình giáo dục, đào tạo với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm”. Với những chủ trương đó chất lượng nguồn lao động đã có những sự biến đổi so với trước đây.
2. Khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế khép kín mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế thực hiện đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm...mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh liên kết hợp tác để tạo điều kiện khuyến khích sản xuất trong nước phát triển bắt kịp vởi trình độ thế giới.
Từ năm 1991, nguồn vốn đầu tư trong nước liên tục tăng, tổng vốn đầu tư trong nước năm 1991 mới là 11545 tỷ đồng, đến năm 1996 là 54912 tỷ đồng, tăng gần 5 lần. Đến năm 1998, con số này là 72084 tỷ đồng, tăng gần 7 lần so với năm 1991 và tăng 31% so với năm 1996. Trong đó, vốn đầu tư khu vực quốc doanh thường cao hơn khu vực ngoài quốc doanh. ở giai đoạn 1999 – 2001, tổng vốn đầu tư vẫn tiếp tục tăng, riêng năm 2001, tăng lên hơn 10.000 tỷ đồng so với năm 2000.
Đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoàit ta đã tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, Cho đến nay, tổng mức cam kết tài trợ là13,04 tỷ USD, trong đó vốn đã được ký là gần 10 tỷ USD và số vốn đã giải ngân tới cuối 1999 là gần 6 tỷ USD. Nhà nước đã ban hành “luật đầu tư nước ngoài”. Cho đến hết 2000, đã có 66 nước và vùng lãnh thổ với nhiều công ty, tập đoàn lớn đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Trong cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành ta thấy, vốn đầu tư thuộc kinh tế nhà nước phần lớn dành cho ngành dịch vụ từ 51,02% năm 1999 lên 51,45% năm 2001, vốn đầu tư cho công nghiệp giảm từ 36,13% năm 1999 xuống 35,81% năm 2001. Còn phân theo ngành của kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng vốn đầu tư dành cho công nghiệp và nông nghiệp không ngừng tăng lên, vốn đầu tư dành cho ngành dịch vụ giảm từ 45,83% năm 1999 xuống 44,04% năm 2001. Như vậy muốn tạo được chỗ đứng cho mình trên thị trường quốc tế chúng ta phải có những sản phẩm hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam. Vì thế phải phát triển công nghiệp, thu hút vốn đầu tư nhằm nâng cao sức mạnh cho công nghiệp.
3. áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
Theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, máy móc không tạo ra giá trị thặng dư, nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên.
Ngày nay, việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với nông nghiệp, đem lại giá trị kinh tế cao như sản xuất thu hoạch bảo quản chế biến...
Đối với công nghiệp, nhất là trong ngành công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông đã ứng dụng nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật của thế giới và đã thực hiện được đúng theo chủ trương “đi trước đón đầu” của Đảng ta. Với các lĩnh vực khác trong ngành công nghiệp, việc sử dụng các máy móc hiện đại vào sản xuất cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp lên 12,9% (năm 2000).
4.Vấn đề bóc lột trong sản xuất và phân phối giá trị thặng dư ở nước ta:
Ngày nay sức cạnh tranh trên thị trường ngày càng lớn, để thành công trong công việc kinh doanh, người chủ kinh doanh ngày nay không chỉ có đóng góp tài sản, tiền vốn mà còn đóng góp sức lao động của mình vào quá trình sản xuất. Sức lao động đó trực tiếp góp phần tạo ra giá trị thặng dư. Tài sản và tiền vốn có nguồn gốc từ lao động – là sản phẩm của lao động –nên nó đóng vai trò hết sức quan trọng của quá trình sản xuất. Tài sản và vốn là yếu tố thu hút sức lao động, và nhờ vậy sản xuất ra giá trị thặng dư và phần thu nhập của người chủ kinh doanh là không liên quan đến bóc lột. Và hiện nay, ở nước ta cũng đang thực hiện cách phân phối này, phân phối theo lao động và phân phối theo vốn, tài sản. Phân phối theo lao động thì dựa trên nguyên tắc lao động ngang nhau thì hưởng ngang nhau, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Với xu thế cổ phần hoá trong sự hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp, có phần góp vốn của người lao động và người lao động cũng được phân phối một phần lợi nhuận cho vốn – theo vốn của họ. Đây là hình thức phân phối giá trị thặng dư Nhưng trong xã hội cũng có những người không thể tham gia góp vốn và lao động được thì cần phải có hình thức phân phối lại qua các quỹ phúc lội công cộng của xã hội và của tập thể. Nội dung của hình thức phân phối này được biểu hiện ở việc: mọi công dân đều phải có nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước - Nhà nước là đại diện cho lợi ích của toàn dân, toàn xã hội. Nhà nước trích một phần ở trong ngân sách thu từ thuế lập quỹ phúc lợi xã hội. Những người được hưởng họ sẽ không trực tiếp được hưởng ngay một lúc toàn bộ giá trị mà họ đã sáng tạo ra mà họ sẽ được hưởng gián tiếp từ từ thông qua các quỹ phúc lợi hay các hàng hoá công cộng.
Chương 3: Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
I. Các giải pháp về vấn đề vốn đầu tư:
1. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung đầu tư cho công nghiệp:
Cần phải chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu vốn đầu tư theo ngành theo hướng tăng đầu tư cho ngành sản xuất vật chất và giảm đầu tư đối với ngành dịch vụ. Vì chỉ có phát triển công nghiệp, chúng ta mới thực sự phát huy được năng lực nội sinh. Tập trung đầu tư cho công nghiệp, với mục tiêu lấy đó làm đà để phát triển các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, trong đó đặc biệt phải đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến, cần phải chú ý đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến nông – lâm sản, vì đây là chìa khoá, nhằm nâng cao giá trị, khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông lâm sản trên thị trường thế giới.
Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư này cần được coi là nhiệm vụ của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước hay một vài doanh nghiệp nhà nước.
Cần gắn việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện tự do di chuyển vốn giữa các ngành kinh tế, nhưng đồng thời Nhà nước phải đóng vai điều tiết đầu tư bằng những chính sách kinh tế vĩ mô (như thuế, và những ưu đãi, khuyến khích đối với những ngành cần đầu tư) nhằm đảm bảo việc chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư cũng như cơ cấu kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
2. Khuyến khích và thu hút đầu tư:
Cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. Thực hiện sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực vay vốn ở các ngân hàng.
Tiếp tục tiến hành cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các thủ tục cho các doanh nghiệp, vì trong kinh doanh cơ hội tốt chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn.
Tăng cường khả năng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Băng cách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với các kỹ thuật sản xuất tiên tiến, hiện đại thông qua các buổi thuyết trình, giới thiệu sản phẩm của các công ty nước ngoài. Xây dựng một hệ thống thông tin về tình hình khoa học kỹ thuật của thế giới cho các doanh nghiệp. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp trong nước.
Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần thông qua các hoạt động ngoại giao, thuyết phục các nước công nhận rằng hiện nay Việt Nam đang thực hiện kinh tế thị trường, thông qua các buổi thuyết trình hay triển lãm tại nước ngoài để giới thiệu về môi trường đầu tư tại Việt Nam, các chính sách ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài cho các doanh nhiệp, doanh nhân nước ngoài, cũng như với kiều bào Việt Nam ở nước ngoài.
3.Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hoạt động đầu tư. Khi nói đến hiệu quả đầu tư là không chỉ nói đến hiệu quả kinh tế mà còn phải nói đến hiệu quả xã hội (tức là việc đầu tư đó, có thể thu hút được bao nhiêu lao động; ảnh hưởng đến môi trường ở mức độ nào…). Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phụ thuộc vào mục đích của hoạt động đầu tư là hiệu quả kinh tế hay hiệu quả xã hội. Vì vậy, khi đầu tư phải xác định rõ mục đích đầu tư và không được thay đổi mục đích đó trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư.
Thực hiện quyền tự chủ trong kinh doanh của các thành phần kinh tế, tận dụng tính năng động của các thành phần kinh tế tư nhân, phát triển sản xuất. Chủ đầu tư phải được độc lập trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và phương án đầu tư, tránh tình trạng đầu tư theo phong trào.
Đối với các doanh nghiệp, sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế là chú ý đến việc thực hiện giá trị thặng dư, theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, giá trị được sinh ra trong lĩnh vực sản xuất, chứ không phải trong lưu thông, nhưng quá trình lưu thông lại là quá trình thực hiện giá trị, mà nếu giá trị không được thực hiện thì cũng không có giá trị thặng dư. Vì vậy, trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời phải sử dụng các phương thức có hiệu quả để bán hàng, nhằm thực hiện giá trị thặng dư.
Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhằm nâng cao năng suất lao động, thu giá trị thặng dư siêu ngạch.
Đối với các địa phương khi tiến hành đầu tư cần phát huy lợi thế so sánh của mình, nhằm tận dụng tối đa những thế mạnh của địa phương mình.
II.Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao động trong nước, có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Phát triển thị trường lao động với tư cách là một yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất, theo đó cung về lao động phải đáp ứng cầu về lao động cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Cần phải chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tăng cả về số lượng và chất lượng của lao động trong ngành công nghiệp, giảm về số lượng lao động trong ngành nông nghiệp.
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Cải cách phương pháp đào tạo, gắn việc dạy lý thuyết với thực hành, khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học. Nhằm tăng lao động lành nghề, lao động có tri thức để tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động chất xám, lao động có kỹ thuật.
Thường xuyên đào tạo mới và đào tạo lại lao động, để đáp ứng nhu cầu trên thị trường sức lao động, đồng thời phải đảm bảo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với nhà trường trong việc đào tạo.
Đối với các doanh nghiệp cần phải thực hiện nghiêm túc việc tổ chức khám chữa bệnh định kỳ cho công nhân, đặc biệt là với những ngành nghề lao động trong môi trường độc hại.
Để phát triển thị trường sức lao động ở nước ta còn cần phải nhanh chóng cải cách chế độ tiền lương, chế độ tiền lương mới cần phải có sự phân biệt đáng kể về thu nhập trên cơ sở lấy hiệu quả lao động làm chính, phân biệt giữa người làm ít với người làm nhiều, giữa lao động phức tạp với lao động giản đơn. Sự phân biệt này góp phần thúc đẩy quá trình tự nâng cao chất lượng lao động đối với mỗi người lao động, khuyến khích người lao động bán sức lao động của họ ở những nơi có mức tiền lương cao. Mặt khác vẫn phải duy trì những ưu đãi xã hội và thực hiện tốt vấn đề bảo hiểm xã hội…
III. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế và giữ vững định hướng XHCN:
Cần tiến hành phân cấp quản lý nhà nước, đặc biệt là việc phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước, tránh sự quản lý chồng chéo, gây ra sự phiền hà đối với việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhất là, trong việc quản lý đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp, hiện nay còn có nhiều cơ quan thuộc các cấp khác nhau quản lý việc đăng ký kinh doanh, gây tình trạng lộn xộn, khiến việc nắm về số lượng, việc kiểm tra giám sát việc kinh doanh của các doanh nghiệp khó khăn. Cần phải quy định riêng một cơ quan làm công việc này.
Hiện nay, trong lĩnh vực quản lý nguồn vốn đầu tư còn nhiều bất cập như: không theo kịp đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, lỏng lẻo trong khâu kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguồn vốn đầu tư, gây những hiện tượng lãng phí, tham nhũng… Vì vậy, phải chú trọng nâng cao năng lực quản lý vốn đầu tư bằng cách: nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ về quản lý hoạt động đầu tư cho các cán bộ chuyên trách. Thường xuyên kiểm tra trình độ của các cán bộ này. Khi giải quyết bất kỳ một vấn đề gì của hoạt động đầu tư, một mặt phải dựa trên ý kiến, nguyện vọng, lực lượng, tinh thần chủ động, sáng tạo của các đối tượng bị quản lý , mặt khác phải có một trung tâm quản lý tập trung và thống nhất với mức độ phù hợp, không quan liêu, có sự phân cấp trog việc quản lý hoạt động vốn đầu tư.
Kiện toàn hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô để nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước. Hệ thống pháp luật phải thông thoáng, thống nhất, một mặt phải bảo đảm việc trả lương tương xứng cho người lao động (và việc mua bảo hiểm xã hội cho người lao động) của các doanh nghiệp, mặt khác phải định hướng dư luận, bảo vệ những người có thu nhập cao chính đáng. Các chính sách kinh tế vĩ mô, phát huy đúng tác dụng điều tiết nền kinh tế, tránh những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, khuyến khích sản xuất phát triển…
Hiện nay, chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân, nghĩa là nền kinh tế ở nước ta vẫn còn bóc lột ở mức độ nào đó. Để giảm sự tiêu cực đó, nhà nước cần thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế (hay phân phối theo mức độ đóng góp); phải thực hiện tốt các chính sách xã hội như phúc lợi xã hội, các ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội…
Bên cạnh những ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nhân nước ngoài hiện nay ở nước ta, cũng cần phải xây dựng hoàn chỉnh và thực hiện nghiêm túc hơn luật kinh doanh đối với những doanh nhân này, tránh tình trạng coi thường pháp luật Việt Nam của những người này.
Trong các doanh nghiệp tư nhân cần phải tăng cường sự hoạt động của các tổ chức, đoàn thể Đảng, Công doàn, đoàn thanh niên… để bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân.Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp liên doanh, hay các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, cần nâng cao năng lực hoạt động cũng như tư cách đạo đức của những người làm công tác công đoàn.
Phần kết luận
Kinh tế thị trường luôn gắn liền với các phạm trù, các quy luật kinh tế của nó, trong đó có phạm trù “giá trị thặng dư”, vì vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thì sự tồn tại của phạm trù “giá trị thặng dư” là một tất yếu khách quan. Do đó, việc nghiên cứu về “giá trị thặng dư” là một điều cần thiết.
Qua sự trình bày, phân tích mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư như trên, có thể đi đến kết luận: “giá trị thặng dư là cái chung cho những xã hội có thời gian lao động vượt khỏi thời gian lao động tất yếu”, nó không phải là phạm trù riêng của CNTB, sự tồn tại của “giá trị thặng dư” là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Phạm trù “giá trị thặng dư” có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, phát triển cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cũng như việc cải thiện đời sống của nhân dân. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng, giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn, phân biệt giữa giá trị thặng dư và vấn đề bóc lột, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phát triển kinh tế, nền sản xuất xã hội phải sản xuất ra giá trị thặng dư đồng thời phải phân phối lượng giá trị thặng dư ấy một cách công bằng loại bỏ sự bóc lột trong xã hội; áp dụng quá trình sản xuất giá trị thặng dư: kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra giá trị thặng dư vào nền sản xuất xã hội ở nước ta trong giai đoạn này, khẳng định việc phát triển chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao động, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư là quá trình đúng đắn để phát triển đất nước; từ việc nghiên cứu này còn giúp Đảng và Nhà nước xây dựng những chủ trương phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo công bằng xã hội.
Mục lục
Trang
Phần mở đầu
2
Phần nội dung
3
Chương I: Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư . ý nghĩa thực tiễn rút ra
4
A. Mặt chất của giá trị thặng dư
4
I.Sự chuyển hoá tiền thành tư bản
4
II. Sản xuất giá trị thặng dư
7
B. Mặt lượng của giá trị thặng dư
11
I. Tỷ suất giá trị thặng dư
11
II. Khối lượng giá trị thặng dư
12
III. Sự thay đổi trong đại lượng giá trị thặng dư
13
IV. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
15
C. ý nghĩa thực tiễn rút ra của vấn đề nghiên cứu
18
Chương II. Thực trạng của việc nghiên cứu và vận dụng lý luận giá trị thặng dư
21
A. Quan điểm của Đảng về việc nghiên cứu và vận dụng lý luận giá trị thặng dư
21
B. Thực trạng nghiên cứu và vận dụng lý luận giá trị thặng dư
21
I. Tình hình nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư
21
II. Thực trạng sản xuất giá trị thặng dư
22
Chương III. Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm phát triển nền kinh tế thì trường định hướng XHCN
25
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Bộ “Tư bản” quyển 1 tập 2
Nghị quyết Đại hội Đảng VII, VIII, IX.
Giáo trình kinh tế chính trị học Mác- LêNin
Tạp chí kinh tế và phảt triển
Tạp chí cộng sản
Tạp chí phát triển kinh tế
Tạp chí nghiên cứu phát triển
Tạp chí lý luận chính trị
Thời báo kinh tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- jyhgfaogk'aghfgolrish[gfudh (2).doc