Bây giờ chúng ta đã có một vài phân tích cơ bản về việc chúng ta làm việc bao nhiêu giờ trong một ngày. Chúng ta hãy quay trở lại với quyết định đi làm hay ở nhà.
1. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng tỷ lệ tham gia LLLĐ nói chung là 65%. Tỷ lệ này chênh lệch tương đối lớn giữa độ tuổi và giới.
2. Có vẻ như nam giới ở độ tuổi trưởng thành thường chọn được đi làm (LFPR > 90%), song những người ở độ tuổi ít hơn sẽ chọn đi học thay vì đi làm và những người ở độ tuổi lớn hơn chọn nghỉ hưu sớm hơn.
3. Thêm vào đó, nữ giới ở độ tuổi trưởng thành thường chọn không tham gia vào LLLĐ và quyết định ở nhà thay vì đi làm.
4. Chúng ta cần phân tích những tác nhân thị trường và cá nhân tác động đến quyết định làm việc.
16 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Lý thuyết cung lao động của cá nhân các hộ gia đình - Harvey B.King, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý thuyết Cung lao động của Cá nhân các Hộ gia đình
Harvey B. King
Dịch viên: Lê Thủy
C. Đâu là Động lực đằng sau Quyết định Tham gia vào LLLĐ?
Bây giờ chúng ta đã có một vài phân tích cơ bản về việc chúng ta làm việc bao nhiêu giờ trong một ngày. Chúng ta hãy quay trở lại với quyết định đi làm hay ở nhà.
Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng tỷ lệ tham gia LLLĐ nói chung là 65%. Tỷ lệ này chênh lệch tương đối lớn giữa độ tuổi và giới.
Có vẻ như nam giới ở độ tuổi trưởng thành thường chọn được đi làm (LFPR > 90%), song những người ở độ tuổi ít hơn sẽ chọn đi học thay vì đi làm và những người ở độ tuổi lớn hơn chọn nghỉ hưu sớm hơn.
Thêm vào đó, nữ giới ở độ tuổi trưởng thành thường chọn không tham gia vào LLLĐ và quyết định ở nhà thay vì đi làm.
Chúng ta cần phân tích những tác nhân thị trường và cá nhân tác động đến quyết định làm việc.
Gần đây người ta đã lập luận rằng một lý do quan trọng lý giải tại sao Canada có thể có mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người thấp hơn của Mỹ là vì Canada có tỷ lệ tham gia LLLĐ giảm.
Để xem hiện tượng này xảy ra như thế nào, tôi nhắc lại một điều rằng mức GDP thực tế (Y) đối với mỗi người (N) có thể được chia ra như sau:
.
Mức thu nhập mỗi người = sản lượng trong một giờ x số giờ làm của một nhân công x tỷ lệ có việc làm x tỷ lệ tham gia LLLĐ.
Đổi lại chúng ta có thể thấy rằng tăng trưởng trong thu nhập bình quân đầu người khi tỷ lệ tham gia LLLĐ (bên cạnh các nhân tố khác) tăng.
Trong những năm 90, Canada có mức tăng trưởng sản lượng thấp hơn một chút so với mức tăng trưởng của Hoa Kỳ song tỷ lệ tham gia LLLĐ lại suy giảm.
Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi Canada có tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người ít hơn!
Chúng ta sẽ để lại tỷ lệ tăng sản lượng thấp hơn cho lý thuyết tăng trưởng lý giải trong 202 hay 302.
Chúng ta sẽ cố gắng tìm được lời giải đáp cho câu hỏi "tại sao tỷ lệ tham gia LLLĐ lại suy giảm?"
Trong tương lai điều gì sẽ xảy ra khi những người thuộc thế hệ bùng nổ dân số sau chiến tranh thế giới bắt đầu về hưu sớm?
Điều gì thúc đẩy họ quyết định nghỉ hưu sớm?
Chúng ta sẽ chỉ đề cập sơ qua đến nội dung được phân tích khá sâu ở Chương 4.
Chúng ta có thể lưu ý rằng Baker và Benjamin đưa ra lập luận rằng tỷ lệ nghỉ hưu sớm tăng không phải là do chế độ an sinh xã hội hào phóng hơn mà do a) thị hiếu thay đổi, b) của cải thay đổi và c) các điều kiện làm việc tồi tàn mà thị trường lao động dành cho lao động lớn tuổi.[13]
Đó là một số nhân tố chúng ta sẽ tìm hiểu.
1. Tiền lương dự trữ
Cần nhắc lại rằng bằng cách so sánh giá trị của hàng hoá làm ra được trong một giờ (Wthị trường) với giá thị của thời gian phi thị trường (tiền công dự trữ, Wdự trữ).
Những cá nhân khác nhau có các mức tiền công dự trữ khác nhau tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau.
Sở thích: những người đam mê làm việc so với người "lười biếng", khác biệt về dộ tuổi, giới và sức khoẻ?
Hoàn cảnh gia đình:
1. Mong muốn được dành thời gian cho gia đình, nhất là khi nếu bạn có con nhỏ ở nhà
2. Công việc gia đình (ví dụ như làm việc trong trang trại gia đình không được trả lương).
Tính sẵn có của các lựa chọn thay thế khác cho thời gian của bạn ở nhà.
1. Chi phí trông trẻ.
2. Các thiết bị góp phần tiết kiệm thời gian ở nhà - tủ lạnh (Đức), máy giặt, máy rửa bát đĩa.
Giá trị của giáo dục.
Giá trị của thu nhập phi lao động.
1. Mức tăng trong thu nhập của vợ/chồng, được hưởng một khoản thừa kế, trúng xổ số.
2. Tác động rõ ràng của việc trả được phần tài sản thế chấp.
Hạn chế về giờ làm cũng có thể dẫn đến tỷ lệ tham gia LLLĐ ít hơn - xem phần D dưới đây.
2. Những khác biệt về giới
Như chúng ta thấy trong phần A, có những khác biệt lớn về giới. Tỷ lệ tham gia LLLĐ nhìn chung là 72.5% đối với nam giới ở độ tuổi trên hoặc bằng 15 tuổi và là 59.7% đối vớí nữ giới.
Những tỷ lệ này là tương đối ổn định trong những năm của thập kỷ 90.
Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia của nữ tăng mạnh trong giai đoạn kể từ Đại Chiến TG lần II. Trong đó, tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ tăng từ mức 24% năm 1951 lên 59.7% như đã nói ở trên.
Liệu chúng ta có thể vận dụng khái niệm tiền công dự trữ để làm sáng tỏ đôi chút về những thực tế chuẩn hóa này không?
Các mức tiền công thị trường:
Sang phần 10 của khoá học này, chúng ta sẽ khảo sát những khác biệt trong các mức lương thị trường một cách chi tiết. Song chúng ta có thể lưu ý rằng, nhìn chung phụ nữ có mức lương thị trường thấp hơn nam giới. Điều này đương nhiên sẽ dẫn đến tỷ lệ tham gia thị trường của nữ thấp hơn của nam.
Phụ nữ có trình độ ĐH có mức lương gần hơn với mức lương của nam giới so với phụ nữ không có trình độ ĐH. Tỷ lệ tham gia LLLĐ họ cũng cao hơn.
Tỷ lệ tiền công trả cho nữ/tiền công trả cho nam đã và đang tăng trong giai đoạn hậu chiến. Tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ cũng tăng.
Ngoài ra, mức tiền công nói chung cho nam cũng như nữ đã và đang tăng lên.
Các mức lương dự trữ:
Về mặt văn hoá mà nói, thường mọi người hay quan niệm rằng phụ nữ nên làm việc ở nhà bởi họ có những kỹ năng cần thiết trong việc nuôi dạy con trẻ - kinh tế học không cho rằng mọi việc vốn là như vậy.
Phụ nữ được nuôi dạy để làm việc nhà nhiều hơn. Bởi vậy họ làm việc nhà hiệu quả hơn và có mức tiền công dự trữ cao hơn?
Có lẽ chúng ta có thể dùng những khác biệt trong quan niệm truyền thống của các nước về vai trò của phụ nữ để lý giải một số khác biệt giữa các quốc gia về tỷ lệ tham gia LLLĐ chăng?
Chúng ta cũng lưu ý rằng các khác biệt giữa các nước trong một sô nhân tố chi phí "khác" kiểu như những khác biệt giữa phí trông trẻ ban ngày so với buổi tối. Xem phần D dưới đây.
Chúng ta cũng có thể xét đến những nhân tố khác nhau thay đổi trong vòng 50 năm góp phần làm giảm nhu cầu làm việc nhà và giảm mức tiền công dự trữ.
Giảm số lương con cái trong một gia đình.
Nhu cầu tiêu dùng hàng hoá gia tăng (nhà to hơn, nhiều xe hơn, nhiều đồ điện hơn).
Sự có mặt của các thiết bị tiết kiệm thời gian ở nhà, có nghĩa là cần ít thời gian hơn cho những việc nhà như nấu ăn và dọn dẹp.
Những thay đổi trong các tư tưởng "chủ nghĩa nam nữ bình quyền"?
Ảnh hưởng Tương tác:
Chúng ta nên lưu ý rằng hai nhân tố có thể tương tác với nhau như thể hiện trong Hình 13 trang bên.
Các tác động có khả năng tự củng cố. Hiện tượng này thường được biết đến như những vòng luẩn quẩn.
3. Khác biệt về độ tuổi
Lý thuyết vòng đời cung lao động (life-circle theory) giải thích các quyết định đồng thời của tiêu dùng, đi học, cung lao động mà bạn đưa ra trong những gia đoạn khác nhau trong cuộc đời.
Khi bạn còn trẻ và chưa có kinh nghiệm, mức tiền công thị trường dành cho bạn ở mức thấp, lợi tức của việc đi học đem lại ở mức cao (ví dụ như tuổi thọ cao hơn). Bởi vậy, mọi người sẽ đi học.
a. Tỷ lệ tham gia LLLĐ chung cho những người ở độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi là 52% năm 2001.[14]
Sau thời gian học hành, thường thì mọi người gia nhập vào LLLĐ với mức lương khá và ngày càng tăng cao.
Năm 2001, tỷ lệ tham gia LLLĐ cho nam ở độ tuổi ở 25-44 là 92.1%, nam ở độ tuổi lớn hơn là 80.4%.
Khi số tuổi tăng lên thì mức tiền công thị trường cũng tăng đến mức đỉnh, điểm sau đó giảm chút ít (phần sau tôi sẽ giải thích rõ hơn) trong khi mức tiền công dự trữ lại tăng do nhu cầu cần được nghỉ hưu và thu nhập có từ lương hưu tăng.
Tỷ lệ tham gia LLLĐ năm 2001 đối với nam ở độ tuổi 45 và cao hơn là 48.9%, đối với nữ ở độ tuổi 55 và cao hơn là 41.5%.
Chúng ta có thể lưu ý rằng trong những năm 90 các quyết định tham gia LLLĐ của người lao động trẻ tuổi là rất khác biệt so với của người lao động lớn tuổi hơn.
Đối với những người ở độ tuổi 25 hay lớn hơn thì tỷ lệ tham gia hầu như không thay đổi trong cả thập kỷ - năm 1989 là 66.3%, năm 1997 là 65.6% và năm 2000 là 66.2%.
Đối với những người ở độ tuổi 15-24, tỷ lệ tham gia giảm mạnh từ 71.0% năm 1989 xuống còn 61.4% năm 1997, sau đó lại phục hồi lại mức 64.8% năm 2000.
Tại sao lại như vậy?
Tỷ lệ thất nghiệp cao giữa những người trẻ tuổi đã làm nản chí những người lao động ở độ tuổi này khiến họ rời bỏ LLLĐ, thường là quay trở lại trường học (tỷ lệ đi học tăng cao trong những năm 90).
4. Những Động cơ đằng sau Quyết định Tham gia LLLĐ
Dữ liệu mà cho đến nay chúng ta vẫn nhấn mạnh bao gồm các mức dữ liệu bình quân trong một năm.
Chúng ta nên lưu ý rằng có nhiều dòng lưu chuyển gia nhập và rời khỏi LLLĐ trong phạm vi một năm, nhất là khi chúng ta tính đến lao động thời vụ.
Nếu chúng ta xét đến tỷ lệ những người tham gia vào LLLĐ tại một thời điểm nhất định trong năm thì chúng ta sẽ thấy tỷ lệ tham gia LLLĐ tăng cao hơn mức bình quân là 10%.
Điều này được lý giải một phần bởi những dao động trong mức tổng cầu.
Giả thuyết nhân công bổ sung (added-worker hypothesis) lập luận rằng nếu lao động trụ cột trong gia đình không có việc làm thì những người ăn theo khác (vợ/chồng và con cái) trong gia đình có thể tham gia vào LLLĐ. Trong các đợt suy thoái kinh tế, tỷ lệ tham gia của những người này tăng cao.
Giả thuyết nhân công nản lòng (discouraged worker hypothesis) lập luận rằng nếu mọi người bị thất nghiệp trong phần lớn thời gian, họ sẽ cảm thấy nản chí và quyết định ra khỏi LLLĐ. Tỷ lệ tham gia của họ suy giảm trong thời kỳ suy thoái kinh tế. (Đôi khi họ được biết đến như là thất nghiệp tiềm ẩn - hidden unemployed.)
Hai tác động này là mâu thuẫn với nhau và rất khó có thể nói được tác động nào lớn hơn tác động nào.
Con số thực tế trong những năm 90 ở Canada cho thấy:
Năm
1989
1993
2000
Tỷ lệ gia nhập LLLĐ
67.2
65.4
65.9
Tỷ lệ thất nghiệp
7.5
11.4
6.8
Chúng ta có thể lưu ý rằng tỷ lệ tham gia LLLĐ giảm khi thất nghiệp tăng cao trong thời kỳ suy thoái. Đây là dấu hiệu cho thấy tác động công nhân nản lòng lớn hơn.
Tuy nhiên, những công nhân nản lòng này đã đi đâu khi nền kinh tế hồi phục trở lại vào cuối những năm 90?
Công nhân ít tuổi thì quay trở lại trường học vào đầu những năm 90 và cho đến cuối những năm 90 thì số này vẫn chưa tham gia hết trở lại vào LLLĐ.
Chúng ta có thể thấy một số bằng chứng của tác động nhân công nản lòng bằng việc xem xét những khác biệt khu vực trong tỷ lệ tham gia, tỷ lệ thất nghiệp và có việc làm/số dân:
Tỷ lệ Tham Gia (2001)
Tỷ lệ Thất Nghiệp
(2001)
Tỷ lệ Có việc làm/dân số (2001)
Canada
66.0
7.2
61.2
Newfoundland
57.3
16.1
48.1
Ông Newfoundland đã rõ ràng chứng minh các dấu hiệu của nhân công bị nản lòng.
Độ chênh lệch trong tỷ lệ thất nghiệp là 9% song độ chênh lệch trong tỷ lệ có việc làm là 13%! Tỷ lệ thất nghiệp "chính xác" của Newfoundland có thể là khoảng 25% nếu chúng ta tính cả tỷ lệ nhân công bị nản lòng.
5. Kết luận về Tỷ lệ tham gia LLLĐ
Lý thuyết này lập luận rằng mọi người có quyết định tham gia LLLĐ hay không bằng việc so sánh giá trị của thời gian thị trường (WTHỊ TRƯỜNG) với giá trị của thời gian ở nhà (WDỰ TRỮ).
Thời gian dự trữ phụ thuộc vào thị hiếu của mỗi người, các tính toán gia đình, thu nhập phi lao động, yêu cầu làm việc nhà, độ tuỏi, giới tính, văn hoá, v.v...
Trong thực nghiệm, chỉ số quan trọng nhất, tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam giới từ những năm 50 đã giảm đôi chút xuống còn 72% vào năm 1990. Trong khi tỷ lệ này của nữ lại tăng lên mức hiện tại là khoảng 60%.
D. Thời gian Tối ưu của một Tuần làm việc
Cho đến nay, chúng ta đã chỉ ra rằng mỗi cá nhân mà chúng ta đang xét tới được phép tự do lựa chọn số giờ làm việc trong một tuần.
Có hai tổ hợp các nhân tố khác ảnh hưởng đến số giờ làm việc một tuần bên cạnh quyết định của các hộ gia đình.
Trước hết, các nhân tố thể chế cũng ảnh hưởng đến số giờ làm việc - luật quy định về làm việc quá giờ, v.v. Chúng ta sẽ khảo sát điều này trong phần này.
Thứ hai, các công ty có thể có mong muốn về khoảng thời gian làm việc nhất định nào đó trong một tuần và có khả năng áp đặt mong muốn này lên người lao động.
Có một số bằng chứng thực tế là điều này đúng, nhất là về mặt ngắn hạn.
Gunderson và Riddell chỉ ra rằng 2/3 số nhân công hài lòng với công việc của mình song 27% muốn được làm việc nhiều hơn (trong đó có những người làm việc toàn giờ) và 6% muốn làm việc ít hơn.[15]
Tại sao các công ty lại muốn công nhân của mình làm việc trong một lượng thời gian cụ thể?
Một lý do là hàng loạt các chi phí ngoài lương (nonwage costs) - chúng ta sẽ trở lại khái niệm mà trong phần 4 về Cầu Lao động trong phần sau của chương trình học này.
Một lý do tiềm ẩn khác là năng suất làm việc của nhân công có thể suy giảm khi số giờ làm việc gia tăng.
1. Làm thêm
Giả định rằng công ty không cần bạn làm việc trên 40 tiếng trong khi bạn lại muốn làm việc nhiều hơn 40 tiếng.
Bạn có thể cần phải "làm thêm" một công việc thứ hai và chúng tôi đặt giả thiết là WTHỨ HAI < WTHỨ NHẤT.
Hình 14 Làm thêm
Khi nào thì bạn làm thêm?
1. Tuỳ thuộc vào mức tiền công và thị hiếu cá nhân của bạn. Nhưng Hình 14 trên đây lại cho ta thấy một trường hợp cơ bản.
2. Lưu ý rằng một người làm thêm phải là một người muốn làm việc nhiều thời gian hơn ở công việc đầu tiên nhưng lại bị hạn chế về thời gian làm việc -- I1 > I0. (TQ hiệu đính: người đó muốn làm theo số giờ của đường I1, nhưng bị giới hạn bởi đường Io, cho nên, chỉ có thể làm theo đường Io là 40 tiếng, và làm thêm 56-40=16 tiếng. Thời gian tham gia LLLD là 56 tiếng.)
Chúng ta thử xem xét trường hợp cho một cá nhân nào đó không muốn làm thêm - I0 của họ ở mức nào?
2. Làm quá giờ
Theo luật pháp hoặc theo nhiều hợp đồng của nghiệp đoàn, nhân công nào làm việc hơn 40 giờ một tuần, hay 44 giờ-tuần phải được trả mức lương làm ngoài giờ cao hơn từ 1.5 - 2 lần so với mức lương cơ bản.[16]
1. Giả định rằng các công ty đôi khi cũng đưa ra cho công nhân của mình sự lựa chọn tương tự, liệu họ có chọn lựa không?
2. Một lần nữa, điều này phụ thuộc vào sở thích của nhân công đó - những người có nhu cầu tiêu dùng nhiều hàng hoá hơn sẽ làm việc ngoài giờ.
3. Hình 15 dưới đây minh hoạ trường hợp khi một người lao động mong muốn làm việc 40 tiếng trước khi công ty đưa ra lựa chọn làm ngoài giờ cho các nhân công.
4. Một người như vậy chắc chắn sẽ chọn được làm thêm giờ.
5. Một lần nữa, hãy thử tự xem xét trường hợp cá nhân người đó muốn làm việc 40 tiếng trước khi công ty đưa ra đề nghị làm thêm giờ và muốn làm việc ít hơn 40 tiếng sau đề nghị đó.
Hình 15 Làm việc ngoài giờ
Tại sao các công ty lại đề nghị làm thêm giờ thay vì thuê nhiều nhân công hơn? Chúng ta sẽ xem xét điều này trong phần nói về nhu cầu của công ty.
3. Chi phí của làm việc
Hình 16 dưới đây mô tả tình huốn phát sinh các chi phí khác đi kèm với chi phí làm việc. (Tôi đã đưa tất cả các chi phí khác trong đồ thị cùng một lúc. Rõ ràng điều này không phải bao giờ cũng đúng.)
Hình 16 Các chi phí của quá trình làm việc
Một người sẽ ở điểm a nếu họ không làm việc. Nếu đi làm việc, họ sẽ gây ra các chi phí sau:
Chi phí làm việc cố định (ngang mức ab), không kể số giờ làm việc là bao nhiêu -Chúng có thể bao gồm chi phí cho trang phục đi làm phù hợp, các cấu phần xác định của chi phí cho một ngày làm việc, v.v.
Các chi phí thời gian cố định của làm việc (ngang với bc) cho dù số giờ làm việc là bao nhiêu.
Chúng có thể bao gồm các chi phí đi lại, thời gian dành để đưa con đến nơi trông trẻ.
Các chi phí tiền biến đổi, tỷ lệ với thời gian chi cho làm việc.
Chúng được thể hiện bằng đường ngân sách bằng phẳng hơn, cf.
Trường hợp điển hình của tình huống này là các chi phí trông trẻ mặc dù nó có thể bao gồm cả chi phí cho việc thuê người giúp việc, đi ăn tối ở bên ngoài thường xuyên hơn, v.v.
Như ví dụ trên đã chỉ rõ, thậm chí ngay cả khi tiền công dự trữ ít hơn tiền công thị trường (bỏ qua các chi phí) thì những chi phí này có thể dẫn đến việc một người quyết định thôi không làm việc nữa - sự góp mặt của các chi phí trông trẻ, v.v. giảm tỷ lệ tham gia vào LLLĐ.
Nhìn chung, mức tiền công thị trường càng thấp thì các chi phí cố định càng có vai trò quan trọng thì một người có xu hướng làm việc ít hơn - hãy xem bài báo "Vú nuôi hay mẹ".
Trong một gia đình, điều này có hàm ý là thành viên nhận được mức lương đề nghị thấp nhất/hay có giá trị thời gian phi thị trường lớn nhất sẽ quyết định ở nhà để chăm sóc con cái.
Lưu ý rằng nếu bạn làm việc, thường thì bạn sẽ làm việc nhiều hơn mức quy định - song bạn sẽ không được trả tiền làm thêm giờ vì các mức chi phí là được cố định.
Chú ý: nếu chúng ta bắt đầu xem xét trường hợp những người sống bằng nguồn trợ cấp xã hội bắt đầu đi làm thì chi phí làm việc của họ sẽ bao gồm khoản phúc lợi xã hội mà họ không được hưởng nữa khi đi làm, cũng như những lợi ích khác bị mất đi. (Xem phần E dưới đây.)
Có chính sách nào có thể giải quyết được những chi phí kiểu này?
Khấu trừ thuế cho tất cả các chi phí về dịch vụ giữ trẻ ban ngày cho tất cả mọi người. Khoản này lên tới $5000 một năm cho một trẻ. Trong trường hợp đó, bạn sẽ thu lại được khoảng 25% chi phí bạn bỏ ra cho dịch vụ này.
Trợ cấp (khoảng $250 một tháng ở Saskatchewan) cho các nhóm thu nhập thấp.
Những khoản trợ cấp này có hỗ trợ cho họ phần nào song không nhiều như những khoản trợ cấp ở các nước Bắc Âu giúp trang trải đến 80% các chi phí.
Như chúng ta đã thấy ở Hình 4 trang 6, tỷ lệ tham gia của lao động nữ ở Thuỵ Điển và Đan Mạch là 90% so với 69% ở đây!
4. Hạn chế giờ làm việc
Hình 17 dưới đây mô tả tình huống công ty đưa ra đề nghị các nhân công của mình giảm giờ làm.
Việc lý giải tại sao công ty lại muốn đưa ra đề nghị này chúng ta sẽ để lại phần bàn về cầu lao động.
Ở đây chúng ta chỉ bàn về trường hợp công ty đưa ra đề nghị 40 giờ làm việc hay 0.
Hình 17 Hạn chế đối với giờ làm việc
Mỗi cá nhân sẽ phản ứng như thế nào - việc phân chia này sẽ đem lại điều gì?
Trước hết, chúng ta có thể xem xét trường hợp trên khi Uc > Ub > Ua.
Trong trường hợp này, một người sẽ làm việc (tại Uc) với mức giờ lựa chọn tự do song nếu ở dưới mức yêu cầu thì người đó sẽ chọn không tham gia vào thị trường lao động (Ub > Ua).
Bởi vậy, trong trường hợp này thì định mức hạn chế giờ làm việc theo một nghĩa nào đó sẽ "tạo ra" thất nghiệp (liệu đây có phải là thất nghiệp tự nguyện hay không còn gây nhiều bàn cãi).
Hình 18 Phân chia giờ làm việc phức tạp hơn
Trường hợp có nhiều khả năng hơn được thể hiện ở trên.
Trong trường hợp này, việc phân chia hạn mức giờ làm việc gây ra nạn làm việc quá ít (người lao động phải chọn điểm A trong khi thích làm việc ở điểm B hơn - những người có giá trị nghỉ ngơi thấp) hoặc có quá việc (người lao động chọn điểm A trong khi thích được làm việc ở điểm C hơn - những người có giá trị nghỉ ngơi lớn hơn).
Những vấn đề này có tác động gì?
1. Thứ nhất, trong khi cách phân chia định mức này có thể tăng hiệu quả cho công ty thì rõ ràng nó lại giảm hiệu quả làm việc của các nhân công.
2. Kết quả là, người lao động có thể bị rơi vào hai loại hành vi.
Về lâu dài, học có thể đi tìm một công việc khác có giờ làm việc phù hợp hơn. (Điều này có thể khiến cho công ty mất đi những công nhân lành nghề.)
Về mặt ngắn hạn, họ có thể đi làm thêm nếu họ muốn làm nhiều thời gian hơn (việc này rất có khả năng ảnh hưởng đến năng suất của họ), hay họ có thể lâm vào tình trạng vắng mặt thường xuyên nếu họ muốn làm ít thời gian hơn (rõ ràng là việc này sẽ làm giảm năng suất).
Bởi vậy, các công ty có thể nhượng bộ và cho phép người lao động có nhiều khoảng thời gian linh hoạt hơn. Ví dụ như công ty cho phép hai người cùng làm chung một vị trí.
E. Vấn đề chính sách: Phúc lợi XH, Thuế thu nhập Âm, và Phúc lợi việc làm
Một vấn đề chính sách lao động quan trọng hiện nay mà bây giờ chúng ta có thể phân tích là vấn đề phúc lợi xã hội hay các khoản chi trả hỗ trợ của xã hội.
Hình 19 Chế độ chuẩn Chi trả Phúc lợi xã hội Trung bình
Trước hết, chúng ta xét một mức phúc lợi chuẩn hay hệ thống bảo hiểm thất nghiệp như thể hiện trong Hình 19 ở trên.[17]
Trong hệ thống này, bạn nhận được một khoản chi trả cả gói có giá trị ngang mức G (để đơn giản hoá chúng ta sẽ giả định rằng y = 0).
Nếu bạn bắt đầu làm việc, thường thì chính phủ sẽ khấu trừ một khoản là 1 đô cho 1 đô bạn kiếm được. Việc này tạo ra đường ngân sách gấp khúc như thể hiện ở đây.
Lưu ý rằng bạn sẽ thường xuyên không muốn bắt đầu làm việc trừ khi tiền công ở mức rất cao.
Điều này tạo ra thứ vẫn được biết đến như "bẫy nghèo đói" - những người sống bằng nguồn trợ cấp xã hội không có động lực để làm việc.
Thật ra, nếu phúc lợi xã hội cho bạn dịch vụ y tế như trợ giá/miễn phí, v.v.những thứ mà bạn sẽ mất đi nếu đi làm thì điều này tạo ra một vấn đề lớn hơn.
Về mặt học thuật mà nói, với mỗi một đô la kiếm ra người đó phải nộp một khoản thuế với tỷ lệ hơn 100%. Bởi vậy, người đó hầu như không có động cơ để tìm việc.
Vậy chính phủ có thể giải quyết vấn đề này như thế nào? Đây là một vấn đề chính sách quan trọng ở cả Canada và Mỹ? Có bốn giải pháp được khuyến nghị (đôi khi người ta kết hợp cả bốn giải pháp này với nhau).
Đào tạo
Một giải pháp là đào tạo bởi sau khi được đào tạo, những cá nhân này có thể tìm được việc làm. Chúng ta dịch chuyển đường ngân sách của họ lên phía trên đáng kể. Lúc đó họ cũng có nhiều khả năng sẽ làm việc hơn như thể hiện trên đồ thị.
Tuy nhiên, giải pháp này là đắt đỏ và không phải lúc nào cũng là một giải pháp thành công. Các chính phủ không phải lúc nào cũng xuất sắc trong việc lựa chọn hình thức và nội dung đào tạo phù hợp.[18]
Chi trả phúc lợi xã hội giảm dần
Giải pháp Alberta - chúng ta có thể cắt giảm G (phúc lợi xã hội). Việc này có thể có tác động khiến cho một số người phải làm việc mặc dù nếu việc họ làm có độ thoả dụng ít hơn.
Tuy nhiên, điều này có thể là khó khăn cho những trường hợp nuôi con một mình (hãy nhớ lại phần chúng ta bàn về các chi phí giữ trẻ ban ngày).
Đây là cách tiếp cận chính sách mà chính phủ Mỹ áp dụng trong những năm cuối thập kỷ 90. Mỗi người chỉ được hưởng chế độ trợ cấp của chính phủ liên bang trong khoảng thời gian dài nhất là 2 năm.
Đây là cách tiếp cận chính sách được chính quyền bang Alberta và Ontario áp dụng năm ngoái. Các chính quyền này tập trung vào việc cắt giảm các phúc lợi xã hội cho người sống độc thân đang ở độ tuổi lao động và có khả năng lao động.
Phân tích của chúng ta cho thấy chính sách này sẽ đẩy mọi người đổ đi tìm việc làm. Nhưng, thiếu hụt trình độ và kỹ năng kém cỏi không thể đem lại cho họ một công việc ở mức lương thích hợp.
Khuyến khích tài chính: Thuế thu nhập âm
Thứ ba chúng ta hãy xem xét đến việc áp dụng chế độ thuế thu nhập âm (negative income tax).
Các chế độ này phần nào có sẵn trong các chương trình phúc lợi xã hội như Dự án Tự cung tự cấp.[19]
Chúng ta hãy khảo sát lý thuyết trong trường hợp này được minh hoạ trong Hình 20 dưới đây.
Hình 20 Thuế thu nhập Âm
Ở đây, khi các cá nhân bắt đầu làm việc, họ cũng bắt đầu giữ một phần (1-t) thu nhập của mình.
Điều này tạo ra một đường ngân sách mới, gấp khúc như thể hiện ở trên.
Điều này có thể tạo ra nhiều khuyến khích hơn cho những người đứng ngoài thị trường lao động tham gia vào LLLĐ. Như minh hoạ trong Hình 20 với số người nằm trên những đường I0 chuyển sang I1.
Tuy nhiên, một số người hiện đang làm việc lại có thể quyết định giảm mức cung lao động của mình xuống như minh hoạ trong Hình 21 dưới đây khi di chuyển từ I0 đến I1.
Hình 21 Các vấn đề với thuế thu nhập âm
Bằng chứng thực tế cho thấy những chương trình này có tác động hỗn hợp đến cung lao động - Tuy nhiên, có vẻ như cung lao động giảm đi chút ít.
Song lưu ý rằng một chương trình thuế thu nhập âm có thể vẫn được ưa thích hơn vì nó tăng độ thoả dụng của nhân công.
Nghiên cứu HRDC về Dự án Tự cung tự cấp tuyên bố rằng sau bốn năm, đối tượng hưởng lợi của dự án đã có cuộc sống khá giả hơn. Dự án đã giúp những người nộp thuế tiết kiệm được chi phí:
"Theo như phân tích trong báo cáo này thì SSP đang có tác động đáng kể. Mặc dù số người tăng thời gian nhận hỗ trợ thu nhập để có thể có đủ điều kiện hưởng SSP có tăng lên song khuyến khích tài c hính do SSP bổ sung làm giảm lợi nhuận IA và tăng chi trả thuế đủ để giữ tổng chi tiêu công ở mức ngang bằng. Hơn thế, thu nhập gia tăng có được từ việc làm toàn thời gian khiến cho tổng thu nhập hộ gia đình tăng lên một khoản đáng kể."[20]
Thật ra, tác động của thuế thu nhập âm là vô cùng quan trọng đối với trường hợp mẹ nuôi con một mình. Bởi như chúng ta đã nhắc tới ở trên, lý do là bởi các chi phí kiểu như phí trông trẻ ban ngày, v.v. họ phải gánh một khoản thuế với tỷ lệ đánh thuế cao hơn 100%!
Cuối cùng, những người không đi làm khi đi làm có thể thu được kinh nghiệm làm việc quan trọng, được đào tạo cũng như sẽ có mức lương trong tương lai cao hơn.[21]
Tóm lại, các chương trình thuế thu nhập âm có vẻ như công bằng và hiệu quả hơn so với các chương trình phúc lợi xã hội.
Phúc lợi việc làm
Một chương trình thứ tư là "phúc lợi việc làm" - để có thể nhận được phiếu hưởng trợ cấp bạn phải bỏ ra một lượng thời gian tối thiểu để làm việc công có ích, làm việc tình nguyện hoặc tham gia đào tạo.
Trước đây, chương trình này được triển khai ở Saskatchewan,[22]và đã được áp d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ly thuyet cung lao dong cua ca nhan va ho gia dinh.doc