Lý luận hình thái kinh tế xã hội trong con đường phát triển đất nước

Triết học là một hệ thống quan điểm chung về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học là môn khoa học chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội, nhằm tìm ra các quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục đích của triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể luận và nhận thức luận. Theo người ấn Độ thì đó là sự hiểu biết lý giải và phân tích, con người phương Tây cho rằng đó là sự thông thái, triết học chính là môn học cung cấp cho ta lý luận về phương pháp, cung cấp cơ sở lý luận để chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.Đặc biệt phương pháp luận này đã cho ta thây rõ hình thái kinh tế xã hội, nó được thể hiện rõ nhất trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

Qua tìm hiểu em cho đề tài tiểu luận "Lý luận hình thái kinh tế xã hội trong con đường phát triển đất nước”. Qua quá trình tìm hiểu không tránh khỏi những thiếu xót mong thày cô thông cảm.

Đề tài của em được chia làm ba phần.

Phần I:Tổng quan về hình thái kinh tế xã hội.

Phần II: Lý luận hình thái kinh tế xã hội trong con đường phát triển của đất nước.

Phần III: Ưu và nhược điểm của hình thái kinh tế xã hội

 

docx18 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Lý luận hình thái kinh tế xã hội trong con đường phát triển đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Triết học là một hệ thống quan điểm chung về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học là môn khoa học chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội, nhằm tìm ra các quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục đích của triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể luận và nhận thức luận.. Theo người ấn Độ thì đó là sự hiểu biết lý giải và phân tích, con người phương Tây cho rằng đó là sự thông thái, triết học chính là môn học cung cấp cho ta lý luận về phương pháp, cung cấp cơ sở lý luận để chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.Đặc biệt phương pháp luận này đã cho ta thây rõ hình thái kinh tế xã hội, nó được thể hiện rõ nhất trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Qua tìm hiểu em cho đề tài tiểu luận "Lý luận hình thái kinh tế xã hội trong con đường phát triển đất nước”. Qua quá trình tìm hiểu không tránh khỏi những thiếu xót mong thày cô thông cảm. Đề tài của em được chia làm ba phần. Phần I:Tổng quan về hình thái kinh tế xã hội. Phần II: Lý luận hình thái kinh tế xã hội trong con đường phát triển của đất nước. Phần III: Ưu và nhược điểm của hình thái kinh tế xã hội. Phần I: Tổng quan về hình thái kinh tế xã hội Khái niệm hình thái kinh tế xã hội Là một phạm trù chỉ xã hội ở từng nấc thanh lịch sử nhất định, với 1 kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xâ dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế xã hội. Hình thái kinh tế xã hội khác nhau có lực lượn sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng của nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội. Các quan điểm về chính trị, pháp quyền đạo đức, triết học... và các thiết chế tương ứng được hình thành, phát triển trên cơ sơe các quan hệ sản xuất tạo thành,phát triển trên cơ sở các quan hệ sản xuất tạo thành kiến trúc thượng tầng của xã hội. Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác.Các quan hệ đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với dự biến đổi của quan hệ sản xuất. 1.2. Sự phát triển và mối quan hệ của hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử. Xã hội phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển là một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Các hình thái kinh tế xã hội vận động, phát triển do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình tự nhiên của phát triển , Trong quá trình sản xuất con người có những quan hệ với nhau, đó là những quan hệ sản xuất do đó tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quy định đến lượt nó quan hệ sản xuất lại quy định các quan hệ xã hội khác như: chính trị, luật pháp, đạo đức..khi lực lượng sản xuất phát triển đã có những thay đổi về chất, mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có, dễn đến đòi hỏi khách quan thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mưois thông qua cuộc cải cách xã hôi. Quan hệ sản xuất thay đôit thì toàn bộ các quan hệ xã hội khác cũng thay đổi. Vì vậy ta có thể thấy rằng phương thức sản xuất thay đôi các quan hệ xã hội về chính trị, tinh thần cũng thay đổi, dẫn đến sự thay đổi của hình thái kinh tế xã hội. Như le nin viết” chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đen quy những quan hệ xã hội vào quan hệ sản xuất và đen quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sơ vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Theo học thuyết hình thái kinh tế xã hội thì sự tồn tại của xã hội phải dựa trên tự sản xuất vật chất. Bởi vì sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng và quyết định đối với đời sống của con người. Sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng và quyết định đối với đời sống của con người. Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự sinh tồn của xã hội, nó đảm bảo những nhu cầu cần thiết cho mọi sự sinh hoát của con người có thể tồn tại được. Sản xuất vật chất là cơ sở để hình thành tất cả các quan hệ xã hội nó là cơ sở cho sự tiế bộ của xã hội, đồng thời sản xuất vật chất là quá trình con người sản xuất công cụ lao động tác động vào tự nhiên để đem lại của cải vật chất cho đời sống xã hội. Các nhà triết học và xã hội học duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã hội từ ý thức tư tưởng của con người hay một lực lượng siêu nhân nào đó. Ngày nay, nhiều nhà xã hội học tư sản giải thích sự phát triển của xã hội theo quan điểm kỹ thuật, đồng thời, họ cũng khẳng định con người phải sản xuất ra của cải vật chất,đó là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội, xã hội không thể thõa mãn nhu cầu của mình bằng những cái đã có sẵn trong tự nhiên, để duy trì và nâng cao đời sống của mình. Con người phải tiến hành sản xuất ra của cải vật chất, nếu không có vật chất thì xã hội sẽ diệt vong, sản xuất của cải vật chất chính là điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là hành động lịch sử mà hiện nay cũng như ngàn năm trước đây người ta vẫn tiến hành từng ngày từng giờ để duy trì cuộc sông của con người. Nó là cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác, là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội. Sản xuất không phải lúc nào cũng ở trình độ như củ mà nói chung là không ngừng tiến lên từ thấp đến cao. Mỗi khi sản xuất phát triển đến một giai đoạn mới,cách thức sản xuất của con người thay đổi và người trong quá trình sản xuất có sự biến đổi và mọi mặt của đời sống xã hội có sự thay đổi theo. Ở hình thái kinh tế xã hội có các điều kiện khách quan, nó là những yếu tố tác động lớn đến hình thái của từng xã hội,đó là môi trường tự nhiên, cung cấp cho con người nguồn tư liệu sinh hoạt tư liệu lao động thiên nhiên phong phú, nó có thể gây ra khó khăn hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho con người trong quá trình sản xuất, từ đó nó ảnh hưởng tới năng suất lao động. Ngoài ra, nó còn quy đinh việc hình thành vùng và ngành sản xuất,phân công lao động và phân bố lực lượng xản xuất hoàn cảnh địa lý là điều kiện thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất vật chất. Bên cạnh đó, dân số cũng là điều kiện ảnh hưởng đền nguồn lao động, sức sản xuất phân công nghành nghế. Mật độ dân số quá đông dẫn đến đối tượng lao động thiếu, nhân lực thừa thì khó có thể phát triển được kinh tế, sản xuất không phát triển được làm ra ít sản phẩm không trao đổi với nhau đươc, không kích thích được sản xuất. Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù khái niệm duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở mỗi một giai đoạn phát triển của lịch sử với một quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất. Về lực lượng xản xuất thì đó là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, Thể hiện trình độ chinh phục tự nhien của con người. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất, người lao động, năng suất lao động và khoa học kỹ thuật. Tư liệu sản xuất chính là đối tượng lao động tư liệu lao động. Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động và yếu tố phụ trợ cho quá trình sản xuất, công cụ lao động chính ;à vật truyền dẫn lao động của con người vào lao động, bó là yếu tố độc nhất, cách mạng v\nhất vì luôn được cải tiến, là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên, tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại. Người lao động chiếm vị trí hàng đầu trong quá trình sản xuất bới vì kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xão của họ làm ra công cụ và cải tiến công cụ tạo nên năng suất lao động. Năng suất lao động đóng vai trò quan trọng vì nó là kết quả của quá trình lao động, là nhân tố cuối cùng và là thước đo trình độ phát triể của lực lượng sản xuất, nó quyết định sự chiến thăngd của xã hội này đổi với xã hội khác.Còn về khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động, khoa học kỹ thuật đã trả thành một lực lượng sản xuất trực tiếp. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất .Nó bao gồm quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ quan trọng nhất, đó là quan hệ quản lý và phân công lao động, phân phối sản phâm lao động. Chúng gắn bó với nhau hữu cơ nhưng quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng nhất. Sở hữu về tư liệu bao gồm sở hữu tư hữu chính là quan hệ con người bất bình đẳng, còn sở hữu công hữu là quan hệ hợp tác bình dẳng. Quan hệ tổ chức và tổ chức sản xuất chính là quan hệ lãnh đạo và bị lãnh đạo. Ngoài ra phân phối sản phẩm là khâu cuối cùng. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ các tư tưởng cảu xã hội cùng với những thiết chế tương ứng, quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật riêng nhưng không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh trên cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tầng của nó.Trái lại, một bộ phận như các tổ chức chính trị, pháp luật có liên hệ trực tiếp đến cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo thì ở xa cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố khác như triết học, nghệ thuật, tôn giáo thì ở xa cơ sở hạ tầng một xã hội là hết sức phức tạp, bao gồm rất nhiều bộ phận yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố quan trọng nhất là nhà nước. Các hình thái kinh tế xã hội tuần tự thay lẫn nhau và hình thái kinh tế xã hội sau bao giờ cũng cao hơn và tiến bộ hơn hình thái kinh tế xã hội trước.Sự biến đổi của hình thái kinh tế xã hội được bắt đầu từ chính sự thay đổi của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất biến đổi đến một mức độ nhất định sec mâu thuẫn gay gắt đến hình thái kinh tế xã hội, Nó quay trở lại xóa bỏ quan hệ cũ thiết lập quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất lại chính là cơ sở hạ tầng thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng tức là di chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn. 1.3. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế xã hội Trước Mác, chủ nghĩa duy tân giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự ra đời của học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội một phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học. Học thuyết đó chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội .Cho nên không thể xuất từ ý thức, tư tưởng, từ ý thức chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ từ phương thức sản xuất Học thuyết cũng đưa ra xã hội không phải là kết hợp một cái ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.Trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định các quan hệ sản xuất khác là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội, Điều đó cho thấy muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Đặc biệt phải phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội,. Chính quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn khoa học. Học thuyết chỉ ra sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, tức là diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên muốn nhận thức đúng đắn đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội . Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt nhưng học thuyết đó vẫn nguyên giá trị. Nó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Đương nhiên học thuyết đó không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp duy nhất khoa học để giải thích lịch sử. Gần đây trước những thành tựu kỳ diệu của khoa học công nghệ, những quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế xã hội và phải đòi hỏi thay thế bằng cách tiếp cận văn minh. Cách tiếp cận này phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp. Thực chất đây là phân chia dựa vào các trình độ phát triển dựa vào trình độ khoa học công nghệ. Rõ ràng cách tiếp cận này không thể thay thế được học thuyết hình thái kinh tế xã hội, nó không vạch ra mối quan hệ giữa các mặt trong đời sống xã hội và các quy luật vận động, phát triển của xã hội từ thấp đến cao. Phần II: Lý luận hình thái kinh tế xã hội vào con đường xây dựng đất nước 2.1 Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2.1.1 Việc lựa chọn cong đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế xã hội C.Mác đã vận dụng học thuyết đó vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách mạng tháng Mười Nga. Khi đó chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Mô hình đó đã phát huy vai trò tích cực trong giai đoạn lịch sử nhất định, đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, dẫn đến chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Từ đó, có quan điểm khẳng định chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn và phủ định chủ nghĩa xã hội Thực ra, khủng hoảng đó chỉ bác bỏ chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, chứ không bác bỏ chủ nghĩa xã hội với tính cách là xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Chính sưk khủng hoảng đó giúp cho chúng ta nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nếu như cách mạng công nghiệp thể kỷ XVIII-XIX đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất để thay thể chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. Vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đảng ta đã khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc đảng ta luôn kiên định con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa và phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện của thể của đất nước ta. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất là chủ yếu, có nền văn hóa tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công,làm theo năng lực,hưởng theo lao động có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước bình đẳng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, có quan hệ hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.Mục tiêu của chúng ta là” Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ và văn minh”. Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu và thừa kế những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa xã hội, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn và phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. 2.1.2 Xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta, Đảng và nhà nước đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường thep sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trong chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục đích khác nhau. Trong các nước tư bản, đó là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Ở nước ta, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của Đảng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tạp thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta đã khẳng định’ Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt sở hữu quan lý và phân phối”. 2.1.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ côgn là phổ biến.Cái thiếu thốn lớn nhất cảu chúng ta là môt nền đại công nghiệp, Chính vì vậy mà chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trogn suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ ra. Con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian vừa có những bước tuần tự vừa có bước nhảy vọt. Phát huy lợi thế của đất nước tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn trí tuệ nhân lực và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam coi phát triển giáo dục và đào tạo khoa học công nghệ là nền tảng và động lức của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước. 2.1.4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị va các mặt khác của đời sống xã hội Gắn liền với sự phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đạm đà bản sắc dân tộc nhằm khôgn ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bỗi dưỡng nhân tài, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Tóm lại học thuyết hình thái kinh tế xã hội là một học thuyết khoa học. Trong điều kiện hiện nay, học thuyết đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó đưa lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng đời sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Học thuyết đó đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 2.2. Con người mới trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. 2.2.1. Phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác. Càng ngày chúng ta càng thấy rõ hơn vai trò và khả năng to lớn củ nguồn lực trong nước. Nội lực phải được hiểu một cách toàn diện con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đất đai…..trong đó tập chung nhất là nhân lực, là con người được đào tạo. Nguồn lực của ta bây giờ đã khác trước,nền kinh tế của nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa, thị trường trong nước và nước ngoài đang mở rộng. Cơ sở vật chất kỹ thuật đã khác trước.Chúng ta có 76 tiệu dân, gần 40 triệu dân lao động, giàu nghị lực và tri thức, tiềm lực mọi mặt trong dân ta còn rất là lớn, vấn đề là làm thế nào để có thể huy động và khai thác thất tốt tiềm lực này. Nhiều ban ngành cần xác định chương trình hành động và giải pháp khả thi nhằm khai thác mạnh mẽ các nguồn nhân lực từ con người, truyền thống văn hóa và truyền thống cách mạng. Mặt khác việc kiên quyết khắc phục một bước hiệu quả tệ nạn lãng phí trong sản xuất, chi tiêu hành chính và tiêu dùng, chi tiêu hành chính và tiêu dùng. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư có hiệu quả, đầy lực tệ nạn tham nhũng chắc chắn sẽ tạo được nguồn lực mới to lơn cho sự phát triển xã hội ở nước ta. Chúng ta nhấn mạnh phải lấy nội lực là chính không có nghĩa là chúng ta phải đóng cửa hay coi nhẹ nguồn nhân lực bên ngoài. Nghị quyết TW4 chỉ rõ phải phát huy nội lực, đồng thời phải phát triển và thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực từ bên ngoài thì sẽ phát huy tốt hơn, có hiệu quả hơn các nguồn lực trong nước. Mọi người dân đều được phát huy quyền dân chủ đồng thời phải tuân thủ pháp luật vì pháp luật là điều kiện đảm bảo tự do dân chủ cho mọi người.Nhà nước ta là nhà nước do dân và vì dân. Tại hội nghị TW4 đã khẳng định” con người Việt Nam là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam vì vậy quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người. Đây là khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta”. Phát huy nguốn nhân lực trong nước để đầu tư phát triển chính là điều kiện quyết định để nhận vốn đầu tư nước ngoài được lành mạnh, giữ vững chủ quyền dân tộc. Các cơ chế, chính sách phải thông thoáng và nhất quán, khuyến khích đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, để phát huy mạnh mã tối đa các nguồn nội lực, động viên cao nhất sự nỗ lực và sáng tạo của mọi người dân trong nước Việt Nam và trên thế giới, mọi thành phần kinh tế. Coi đây là thời cơ tốt để đem lại sức lực, tài năng và của cải đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh làm giầu cho mình và cho xã hội. Đầu tư của nhà nước phải tập trung vào các dự án trọng điểm, có liên qua đền việc đáp ứng nhu cầu của nhiều ngành nghề. Khuyến khích đầu tư của nước ngoài, chủ động tiếp nhận bố trí phù hợp với cơ cầu kinh tế, cơ cấu ngành nghề. Việc tiếp tục hoàn thiện về quan hệ sản xuất phải gắn với nhau và nhằm thúc đẩy giải phòng sức sản xuất, phát huy cao độ các nguồn nội lực để tạo thêm việc làm, phát triênt sản xuất kinh doanh đi đôi với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngày càng tốt. Chỉ có phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân thì mới có thể làm mạnh mẽ các tiềm năng, các nguồn lực, nội lực tiền củ trí tuệ xã hội. Muốn làm được điều đó, chúng ta phải xây dựng bằng được thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân qua đại diện và làm chủ trực tiếp các loại hình cơ sở: xã, phường, doanh nghiệp, tư nhân bệnh viện trường học. Tạo điều kiện cho mọi người dân của mọi miền đất nước, trong mọi thành phần kinh tế chủ động tham gia vào quá trình phát triển, quản lý xã

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTr47.docx