Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng lý luận trên vào nền ở nước ta hiện nay

Như chúng ta đã biết, bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Câu trả lời này chỉ có thể có được thông qua xem xét các mối quan hệ thị trường và yếu tố giá cả thị trường. Có lẽ vì tầm quan trọng đó của giá cả mà hầu như các trường phái kinh tế từ cổ điển đến hiện đại đều cố gắng đưa ra nhiều cách định nghĩa và lý giải khác nhau về giá cả thị trường, để từ đó rút ra những quy tắc chung cho điều hành sản xuất và lưu thông. Việc nắm vững nội dung, quy luật, nguyên tắc hình thành giá cả thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn hoạt động kinh tế hiện nay với mọi quốc gia. Đặc biệt với Việt Nam chúng ta, khi vừa mới gia nhập kinh tế thế giới, dù thời cơ thuận lợi có nhiều song thách thức cũng không ít, trước những biến động phức tạp của tình hình giá cả hiện nay, chúng ta cần có một nhận thức đúng đắn nhằm chỉ đạo hoạt động điều hành giá cả một cách có hiệu quả nhất. Nhận thức điều đó, qua quá trình học tập môn Kinh tế chính trị, em đã có điều kiện nghiên cứu ba đại diện có nhiều đóng góp tích cực vào lý thuyết giá trị là C.Mác. Vì vậy em chọn đề tài “Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng lý luận trên vào nền ở nước ta hiện nay” để trình bày một số ý tưởng của mình.

docx41 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1126 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng lý luận trên vào nền ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết, bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Câu trả lời này chỉ có thể có được thông qua xem xét các mối quan hệ thị trường và yếu tố giá cả thị trường. Có lẽ vì tầm quan trọng đó của giá cả mà hầu như các trường phái kinh tế từ cổ điển đến hiện đại đều cố gắng đưa ra nhiều cách định nghĩa và lý giải khác nhau về giá cả thị trường, để từ đó rút ra những quy tắc chung cho điều hành sản xuất và lưu thông. Việc nắm vững nội dung, quy luật, nguyên tắc hình thành giá cả thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn hoạt động kinh tế hiện nay với mọi quốc gia. Đặc biệt với Việt Nam chúng ta, khi vừa mới gia nhập kinh tế thế giới, dù thời cơ thuận lợi có nhiều song thách thức cũng không ít, trước những biến động phức tạp của tình hình giá cả hiện nay, chúng ta cần có một nhận thức đúng đắn nhằm chỉ đạo hoạt động điều hành giá cả một cách có hiệu quả nhất. Nhận thức điều đó, qua quá trình học tập môn Kinh tế chính trị, em đã có điều kiện nghiên cứu ba đại diện có nhiều đóng góp tích cực vào lý thuyết giá trị là C.Mác. Vì vậy em chọn đề tài “Lý luận giá cả của Mác và sự vận dụng lý luận trên vào nền ở nước ta hiện nay” để trình bày một số ý tưởng của mình. Trong giới hạn thời gian và yêu cầu môn học, em chỉ xin nêu ra những quan điểm tưởng chính của các nhà kinh tế và liên hệ với thực tế công tác điều hành giá cả tại nước ta, qua đó trình bày một số nhận định và kiến nghị một số giải pháp đối với công tác điều hành giá cả hiện nay tại nước ta. Em rất mong nhận được ý kiến góp ý của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn! Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1 NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÝ LUẬN GIÁ CẢ VÀ VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN GIÁ CẢ TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ 1. Lý luận giá cả - lý luận kinh tế căn bản của nền sản xuất hàng hoá. K. Mác là một trong những người đầu tiên sáng lập ra kinh tế chính trị học Macxit. Lần đầu tiên, ông đã nêu ra đối tượng của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất, tức là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, mà trước hết là các quan hệ sở hữu và phân phối. Từ xuất phát điểm đó, ông đi nghiên cứu về sản xuất và lưu thông hàng hóa trong xã hội. Trên cở sở phê phán và kế thừa các học thuyết của các trường phái kinh tế trước đó cộng với thiên tài bẩm sinh, Mác đã xây dựng cho mình một học thuyết kinh tế chính trị hoàn bị. Trong đó, thành tựu đầu tiên phải kể đến là phát hiện ra quy luật giá trị - quy luật kinh tế cơ bản của mọi nền sản xuất và lưu thông hàng hóa. Bằng việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã phân biệt được hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng là công dụng một vật, là thuộc tính tự nhiên của nó làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của cong người, còn giá trị là hao phí lao động để làm ra hàng hóa đó. Đặc trưng của giá trị sử dụng là phải được tiêu dùng, thông qua trao đổi hàng hóa. Trong quá trình trao đổi trên thị trường, sự cạnh tranh nội bộ ngành sẽ dẫn tới hình thành giá trị trao đổi hay giá cả. Do vậy giá cả chính là giá trị thị trường của hàng hóa. Mác cho rằng giá trị là cơ sở, là nội dung còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả tách khỏi giá trị, vận động xoay quanh trục giá trị. Khi giá trị thay đổi thì giá cả - giá trị trao đổi cũng thay đổi theo. Nghiên cứu nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, Mác đưa ra phạm trù chi phí sản xuất. Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hóa xoay quanh giá trị hàng hóa. Giờ đây, giá cả hàng hóa sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất. 1.1.1. Đặc điểm hoạt động của lý luận giá cả Là một lý luận kinh tế chung, lý luận giá cả cũng như các lý luận kinh tế khác, nó có những đặc điểm sau: Một là lý luận giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con người.Động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động kinh tế của con người là lợi ích kinh tế. Chúng vốn không giống nhau ở mỗi người, mỗi tập đoàn xã hội, vì vậy kết quả tác động của lý luận giá cả chỉ mang tính xu hướng, có thể kết quả không hoàn toàn giống nhau. Cũng vì vậy khi vận dụng lý luận giá cả, điều cốt yếu là thực hiện và kết hợp tốt lợi ích của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế. Sự vận dụng lý luận giá cả của con người hoạt động vì lợi ích kinh tế là một phương tiện cho chúng ta biết được sự hoạt động của lý luận giá cả. Hai là lý luận giá cả hoạt động thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường. Đặc điểm này đòi hỏi việc vận dụng lý luận giá cả, điều cốt yếu là phải biết lựa chọn, tổ chức thực hiện tốt phạm trù giá cả. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá cả. Giá cả phụ thuộc vào giá cả, vì giá cả là cơ sở của giá cả. Nhưng do tác động của lý luận cung cầu,tình trạng độc quyền trên thị trường và các nhân tố khác làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường có thể tách rời giá cả, lên xuống xung quanh giá cả của nó. C.Mác gọi đó là “vẻ đẹp” của lý luận giá cả. Trong ‘vẻ đẹp” này, giá cả hàng hoá là trục, giá cả của hàng hoá trên thị trường lên xuống quanh trục đó. Đối với mỗi hàng hoá riêng biệt, giá cả của nó có thể cao hơn, thấp hơn hoặc phù hợp với giá cả. Nhưng cuối cùng, tổng giá cả phù hợp với giá cả của chúng. Chính nhờ phương thức vận động như vậy của giá cả mà lý luận giá cả phát huy tác dụng. Ví dụ khi sản xuất ra một cái rìu theo định nghĩa là lượng tiền đúng bằng hao phí lao động xã hội cần thiết của người thợ thủ công. Nhưng do tác dụng của quan hệ cung cầu làm cho lượng tiền để mua được cái rìu lớn hơn( cầu lớn hơn cung) hoặc nhỏ hơn( cầu nhỏ hơn cung) giá cả của nó. Tuy nhiên vai trò quyết định là lý luận giá cả, còn lý luận cung cầu chỉ mang tính phụ trợ cho sự hoạt động của lý luận giá cả vì Mác chứng minh rằng ngay cả khi cung cầu cân bằng nhau giá vẫn biến động. “Mác khẳng định: dù giá cả hàng hoá được điều tiết như thế nào thì lý luận giá cả vẫn chi phối sự vận động của chúng” Ba là tính lịch sử của lý luận giá cả.Đặc điểm này nhấn mạnh đến cơ sở xác định của sự xuất hiện và tồn tại của lý luận giá cả từ đó đòi hỏi việc vận dụng lý luận giá cả phải tính đến điều kiện lịch sử cụ thể của những cơ sở tồn tại của nó để có những hình thức và biện pháp phù hợp.Cơ chế thị trường tự điều tiết là cơ chế vận động của hệ thống lý luận kinh tế trước hết là lý luận giá cả. lý luận giá cả là “thống soái” chi phối cơ chế thị trường. Vận dụng lý luận giá cả như một đòn bẩy cho sự phát triển của kinh tế thị trường là một chính sách đúng đắn. 1.1.2. Những yêu cầu của lý luận giá cả trong nền kinh tế hàng hoá Nói đến hàng hoá là nói đến hai đặc tính của nó là giá cả và giá cả sử dụng. Hàng hoá được sản xuất ra để bán trên thị trường nên giá cả hàng hoá là đặc tính quan trọng nhất. Trong nền kinh tế hàng hoá muốn thúc đẩy sự phát triển của nó thì cần phải tuân theo những yêu cầu của lý luận giá cả trong sản xuất và trong lưu thông. Lý luận giá cả quyđịnh mặt chất và sự vận động về mặt lượng của giá cả hàng hoá. Theo lý luận này: “sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá cả hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết”. Điều đó có nghĩa là: Trong sản xuất: lý luận giá cả yêu cầu hao phí lao động xã hội cá biệt để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết. Ví dụ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một kg thóc là 2000 đồng. Người nông dân muốn bán được với thu lợi thì hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra một kg thóc phải nhỏ hơn 2000 đồng. Thực hiện yêu cầu này, các chủ thể sản xuất hàng hoá phải định mức hao phí lao động, vật tư máy móc… sao cho hao phí lao động của mình phù hợp hoặc nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết. Như vậy nghành sản xuất nào áp dụng kinh tế mới trước nhất thì hao phí lao động cá biệt sẽ nhỏ hơn hao phí xã hội cần thiết, nhưng họ bán hàng phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ phát tài. Trong lưu thông: lý luận giá cả yêu cầu trao đổi ngang giá. Ví dụ một cái rìu đổi được 20kg thóc tức là hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một cái rìu phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra 20kg thóc. Lý luận giá cả đòi hỏi phải căn cứ vào giá cả xã hội để tiến hành trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Người bán đảm bảo: đúng số lượng, chất lượng, giá cả sử dụng, người mua phải trả đúng giá cả hàng hoá đảm bảo sự bình đẳng,công bằng không vi phạm lợi ích của nhau giữa người sản xuất và tiêu dùng hàng hoá. Muốn vận dụng tốt lý luận giá cả trong việc phát triển kinh tế hàng hoá thì ngoài những nghiên cứu về sự xuất hiện, tồn tại cùng với những đặc điểm, tính chất của lý luận giá cả-lý luận kinh tế của sản xuất hàng hoá chúng ta còn phải nghiên xem xét đến vai trò của lý luận giả trị trong cơ sở kinh tế xác định của nó. 1.2. Vai trò của lý luận giá cả trong nền kinh tế hàng hoá Lý luận giá cả là lý luận kinh tế chung, nó hoạt động trong tất cả các phương thức sản xuất và lưu thông hàng hoá.Với ba tác dụng cơ bản, lý luận giá cả có vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. Một là lý luận giá cả có tác dụng tự phát điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong sản xuất, lý luận giá cả điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các nghành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Tác dụng này của lý luận giá cả do nguyên nhân sự biến động của giá cả hàng hoá xung quanh giá cả của hàng hoá. Do quan hệ cung cầu, giá cả hàng hóa trên thị trường lên xuống xung quanh giá cả của nó. Chỉ rõ những sự mất cân đối trong việc phân phối lao động xã hội đối với các nghành sản xuất. Nếu ngành nào đó cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hoá lên cao thì người sản xuất sẽ đổ xô vào nghành đó. Ngược lại, khi nghành nào đó thu hút quá nhiều lao động xã hội, cung vượt quá cầu, giá cả hàng hoá hạ xuống, thì người sản xuất sẽ phải chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi nghành này để đầu tư vào nơi có giá cả hàng hoá cao.Nhờ vậy mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các nghành sản xuất khác nhau. Sự vận động của giá cả là do lý luận giá cả chi phối. Vai trò quyết định là lý luận giá cả, còn lý luận cung cầu chỉ có tính chất phụ trợ cho lý luận giá cả hoạt động. Lý luận cung cầu giải thích sự biến dạng của lý luận giá cả trong đời thường. Trong lĩnh vực lưu thông, lý luận giá cả có tác dụng điều tiết nguồn hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Tác dụng này của lý luận tạo nên sự cân bằng về hàng hoá trên thị trường. Hai là lý luận giá cả tự phát kích thích sản xuất phát triển. Vì lao động xã hội cần thiết là cơ sở của giá cả hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất nào mà hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì thu lợi, còn người nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị thiệt, vì không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Muốn đứng vững và thắng lợi trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều phải luôn tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt thông qua cải tiến kỹ thuật, tăng suất lao động. Vì thế, trong nền kinh tế hàng hoá, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với trong nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tuy nhiên tác dụng này còn có khuyết tật là do chạy theo sản xuất những hàng hóa có giá cả cao, cho nên tạo ra tình trạng có một loại hàng hoá nào đó được sản xuất ra quá nhiều, dẫn đến hiện tượng dưa thừa, làm lãng phí lao động xã hội. Mặt khác nhiều người sản xuất chỉ chú ý đến lợi nhuận nên hàng hoá có chất lượng kém. Ba là thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá cả, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động cần thiết, nhờ đó phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng doanh nghiệp của mình. Đây cũng chính là tác động kích thích lực lượng sản xuất phát triển. Những người làm tốt có thể là những người biết ứng dụng những thành tựu mới của khoa học vào sản xuất để giảm hao phí lao động xã hội cá biệt. Bên cạnh đó, những người làm ăn kém cỏi không gặp may, không biết áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Ví dụ hai công ty dệt may sử dụng dây truyền sản xuất khác nhau. Công ty nào sử dụng dây dây truyền công nghệ mới thì hao phí lao động cá biệt sẽ nhỏ hơn của dây truyền cũ, sản phẩm làm ra có giá thành rẻ hơn mà vẫn bán đúng theo giá thị trường thì công ty đó có lãi. Như vậy lý luận giá cả bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất. tuy nhiên ngay trong quá trình thực hiện sự bình tuyển người sản xuất, lý luận giá cả đã phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Người giàu trở thành ông chủ, người nghèo dần trở thành người làm thuê. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần sinh ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa kẻ giàu- người nghèo, quan hệ giữa chủ- thợ, quan hệ giữa tư sản- vô sản là quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu dẫn đến đấu tranh giữa người nghèo chống lại kẻ giàu, thợ chốnglại chủ, vô sản chống lại tư sản. Ngay trong cùng lớp giàu hoặc cùng lớp nghèo với nhau, cũng xảy ra cạnh tranh chèn ép, thôn tính lẫn nhau “cá lớn nuốt cá bé”, gây thiệt hại lợi ích kinh tế của đối thủ một cách tàn nhẫn. Đó cũng là một khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường. Từ những tác dụng của lý luận giá cả ta thấy được mặt trái của lý luận này trong cạnh tranh, do đó cần phải xem xét biểu hiện của nó trong cạnh tranh để có những giải pháp khắc phục khuyết tật. 1.3 Biểu hiện của lý luận giá cả trong cạnh tranh Cạnh tranh là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá đựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Cơ sở của cạnh tranh là chế độ tư hữu. Vì lý luận giá cả hoạt động thông qua hoạt động kinh tế của con người nên trong cạnh tranh nó biểu hiện ở hoạt động cạnh tranh trong nội bộ nghành và cạnh tranh giữa các nghành. Cạnh tranh trong nội bộ nghành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra loại hàng hoá có lợi hơn để thu được lợi nhuận siêu nghạch. Lợi nhuận siêu nghạch này có đặc điểm tạm thời, không ổn định với từng nhà tư bản. Lợi nhuận siêu nghạch là phần giá cả thặng dư thu được trội hơn so với giá cả thặng dư bình thường nhờ giá cả cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá cả xã hội của hàng hoá. Như vậy hoạt động kinh tế của các nhà tư bản trong cạnh tranh trong nội bộ nghành mà thực hiện theo yêu cầu của lý luận giá cả thì sẽ thu được lợi nhuận siêu nghạch. Biện pháp cạnh tranh của các nhà tư bản là thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản, nâng cao năng xuất lao động nhằm làm cho giá cả cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá cả xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các nhà tư bản là những nhà sản xuất giỏi vì đã vận dụng tốt lý luận giá cả trong kinh doanh. Kết quả của cạnh tranh là hình thành nên giá cả xã hội ( giá cả thị trường) của từng loại hàng hoá. giá cả này theo C.Mác: “Một mặt, phải coi giá cả thị trường là giá cả bình quân của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực nào đó; mặt khác, lại phải coi giá cả thị trường là giá cả cá biệt của những hàng hoá đã được sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó chiếm một khối lượng lớn trong số những sản phẩm của khu vực này.” Cạnh tranh giữa các nghành là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong nghành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Để đạt được mục đích các nhà tư bản sử dụng biện pháp tự do di chuyển tư bản tức là phân phối tư bản vào các nghành sản xuất khác nhau. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là giá cả hàng hoá trở thành giá cả sản xuất đi kèm với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Trong cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh giữa các nghành sự hoạt động của lý luận giá cả thông qua sự vận động của giá cả lại có hình thức biểu hiện khác. Đó là giá cả không xoay quanh giá cả hàng hoá nữa mà nó lại xoay quanh giá cả sản xuất. Thực chất hoạt động của lý luận giá cả sản xuất là sự biểu hiện của lý luận giá cả trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. Lý luận giá cả là lý luận “thông soái” chi phối cơ chế thị trường và lý luận giá cả sản xuất chỉ là sự biểu hiện yêu cầu của quy luật giá cả mà thôi. Trung tâm của cơ chế thị trường là lý luận giá cả quyết định giá cả. xoay quanh trung tâm đó có các lý luận kinh tế khác như công cụ, phương tiện để thực hiện yêu cầu của lý luận giá cả. Do đó nó có sức mạnh tự điều chỉnh, A.Smith gọi là cánh tay vô hình. 1.4 Biểu hiện của giá cả trong độc quyền Lý luận giá cả là lý luận hoạt động trong các phương thức sản xuất có sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy cần xem xét sự hoạt động của lý luận giá cả trong giai đoạn độc quyền. Lý luận giá cả vận động thông qua hoạt động của con người và sự vận động của giá cả. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền tối đa hoá lợi nhuận không phải chủ yếu do sử dụng các biện pháp kinh tế như cải tiến kỹ thuật, phương pháp quản lý…mà chủ yếu là do địa vị, quyền lực thống trị của độc quuyền tạo ra. Ngày nay, độc quyền vẫn là bản chất sâu xa của chủ nghĩa tư bản, song tự do cạnh tranh vẫn tồn tại như một đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.Theo V.I.Lênin: Tổ chức độc quyền không thủ tiêu cạnh tranh tự do là cái đã sinh ra nó: nó tồn tại ở trên sự cạnh tranh tự do và cùng với cạnh tranh tự do, do đó mà gây ra một số mâu thuẫn,va chạm và xung đột gay gắt. Bởi vậy trong các nước tư bản hiện nay, khoa học phát vẫn có tác động phát triển nhanh. So với thời kỳ trước, cạnh tranh đã mở ra môi trường rộng lớn cho sự tiến bộ khoa học- công nghệ. Giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện của giá cả hàng hoá trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nó bao gồm chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Thông thường, khi bán hàng hoá thì giá cả cao hơn giá cả hàng hoá, khi mua hàng hoá thì giá cả thấp hơn giá cả hàng hoá- đó là cơ chế mua bán theo giá cả độc quyền. Nhờ vậy mà các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền. Giá cả thị trường độc quyền được hình thành do sự kiểm soát được cung( hoặc cầu), nên nhà độc quyền quyết định được giá cả. Họ có thể tăng giá bán hàng hoá dịch vụ bằng cách giảm cung, tạo nên sự khan hiếm hàng hoá dịch vụ. Trong giai đoạn độc quyền lý luận giá cả vẫn còn phát huy tác dụng. Việc các tổ chức độc quyền mua bán theo giá cả độc quyền xét về thực chất chỉ là sự biểu hiện mới, cao hơn, nó không làm giảm hiệu lực của lý luận giá cả. Giá cả hàng hoá vẫn lên xuống xunh quanh giá cả của chúng nhưng do ưu thế độc quyền. Doanh nghiệp độc quyền có thể quyết định và kiểm soát giá cả, ít quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất như đổi mới công nghệ sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm. Do vậy xét về phương diện xã hội, độc quyền là hiện tượng kinh tế không hiệu quả, gây trở ngại cho việc phát triển sản xuất xã hội và phương hại đến người tiêu dùng. Việc nhận thức và vận dụng lý luận giá cả là cần thiết khách quan. Nhưng muốn vận dụng tốt thì việc nhận thức không chỉ dừng ở nhận thức cảm tính, kinh nghiệm mà phải có trình độ nhận thức lý tính. Vì vậy cần phải nghiên cứu sự vận dụng lý luận giá cả trong nền kinh tế thị trường ở một số nước để rút ra bài học kinh nghiệm cho nước ta. 1.5 Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc vận dụng lý luận giá cả vào nền kinh tế thị trường Trong bài “Châu Á đang hồi phục?” của tác giả Anh Sa đăng trên Thời Báo Kinh tế Sài gòn số 16-2002, có nhận định “Trung Quốc sẽ tiếp tục là người khỏe trong khu vực”. Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp, một số nước muốn nền kinh tế phát triển nhanh hơn bằng cách sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái. Do đó hiện nhiều nước, đặc biệt là nhiều nước Châu Á, lo ngại Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ để khuyến khích xuất khẩu. Nếu Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ, điều đó đồng nghĩa với việc hàng hoá Trung Quốc sẽ rẻ hơn và tràn ngập thị trường. Nhưng Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã tuyên bố trên baó chí là Trung Quốc không cần thiết phá giá đồng nhân dân tệ. Sự khẳng định như vậy là do Trung Quốc có dự trữ một lượng ngoại tệ mạnh đứng thứ hai trên thế giới sau Nhật Bản. Lượng dự trữ này luôn vượt nợ nước ngoài. Ngoài ra Trung Quốc còn lựa chọn giải pháp khác là cắt giảm lãi xuất. Giải pháp này dựa trên sự vận dụng lý luận giá cả vì lãi suất giảm sẽ khuyến khích đầu tư, sản xuất hàng hoá sẽ sử dụng nhiều công nghệ mới tạo ra hàng hoá có giá rẻ hơn các nước khác. Đây là giải pháp làm tăng tính cạnh tranh trong xuất khẩu hàng hoá. Một nhân tố khác giúp hàng hoá Trung Quốc lấy lại tính cạnh tranh là chi phí lao động rất thấp so với nhiều nước phát triển khác trong khu vực. chính vì vậy mà Trung Quốc đã duy trì được thặng dư thương mại liên tục. Đây cũng là một bài học kinh nghiệm cho nước ta trong việc vận dụng lý luận giá cả trong sản xuất và khuyến khích đầu tư. Có nhà kinh tế đã gọi “năm 2002 là năm Trung Quốc”, vì Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8% trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp sau cuộc suy giảm và chỉ đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 2,5%. Năm 2002 còn là năm Trung Quốc ra nhập tổ chức thương mại thế giới( WTO). Những thành tựu thu được trong năm 2002 trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, đối ngoại đã tạo đà cho nhân dân trung quốc chuyển sang năm 2003. Vì vậy nghiên cứu sự vận dụng lý luận giá cả trong việc hoạch định những chính sách của chính phủ Trung Quốc trong năm 2002 cho nước ta những bài học kinh nghiệm tốt để phát triển. Những thành tựu mà Trung Quốc đạt được do rất nhiều những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Chính phủ Trung Quốc đã tìm cách kích thích nhu cầu trong nước, nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu đầu tư, đồng thời áp dụng các chính sách khuyến khích xuất khẩu. Sau khi gia nhập WTO, môi trường ngoại thương của Trung Quốc thuận lợi hơn. Các xí nghiệp vốn ngoại đã mạnh dạn đưa nhiều dây chuyền sản xuất tại Trung Quốc, và bán ra nhiều sản phẩm sản xuất tạ Trung Quốc. Tình hình chính trị ổn định của Trung Quốc cũng là nguyên nhân dẫn đến thành công của kinh tế Trung Quốc. Trong đó sự quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường XHCN ở trung quốc là một nguyên nhân dẫn đến kết quả đáng mong đợi đó. Trung Quốc đã sử dụng những phương pháp, những công cụ quản lý một cách hữu hiệu nhất dựa trên một lý luận kinh tế “thống soái” trong cơ chế thị trường đó là lý luận giá cả. Xét về từng khía cạnh mà Trung Quốc đã vận dụng lý luận giá cả để có thể tránh những sai lầm và học được những kinh nghiệm tốt cho sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Các phương pháp chủ yếu mà Trung Quốc sử dụng trong quản lý nhà nước về kinh tế là: phương pháp hoạch định chiến lược, phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính, phương pháp giáo dục. Trong đó phương pháp kinh tế là việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế( như thuế, lợi nhuận...) tác động đến chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh, thông qua việc đạt được các lợi ích kinh tế để thực hiện các mục tiêu quản lý của mình. Ví dụ như để khuyến khích xuất khẩu, Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp như tài trợ tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, giảm/ miễn thuế cho doanh nghiệp mở rộng được thị phần hay có kim ngạch lớn. Lý luận giá cả được vận dụng trong hoạt động khuyến khích xuất khẩu tạo cho các doanh nghiệp có được nhiều thuận lợi trong xuất khẩu hàng hoá, lợi nhuận thu được cao hơn các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển khác mặc dù cùng sản xuất với mức hao phí lao động như nhau. Có nhiều công cụ quản lý nhà nước được Trung Quốc sử dụng trong quản lý nền kinh tế thị truờng XHCN như Tài chính, Pháp luật. Về tài chính: các công cụ như giá cả và các đòn bẩy khác như lợi nhuận, thuế, lãi suất... được sử dụng khá phổ biến. Trung Quốc đã thực hiện cắt giảm lãi suất, tài trợ tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, giảm miễn thuế cho doanh nghiệp mở rộng thị phần hay có kinh nghạch lớn. Việc thực hiện đều dựa trên các yêu cầu của lý luận giá cả. Trong công tác quản lý nhà nước Trung Quốc đã đạt được một số thành công. Trong xây dựng hệ thống điều tiết vĩ mô, Nhà nước đã không buông lỏng cơ thị trường mà từng bước vững chắc xây dựng hệ thống điều tiết vĩ mô. Trong cơ chế tài chính, Nhà nước thực hiện phân rõ thu chi, phân cấp đảm nhận, xây dựng chế độ phân chia thuế khoá thích ứng với yêu cầu thị trường. Đó là do sử dụng lý luận giá cả một cách linh hoạt. Tuy nhiên không tránh khỏi những hạn chế đó là do sự can thiệp của chính phủ qua nhiều trong kiểm soát và đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKTCT-24.docx