MỤC LỤC
1. Bảo hiểm xã hội và sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xã hội
2. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm xã hội
3. Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội
4. Mối quan hệ giữa bảo hiểm xã hội với chính sách xã hội và chính sách kinh tế
Tham gia đóng góp
28 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 529 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Lý luận chung về bảo hiểm xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn nghề nghiệp.
Năm 1883, nước Phổ ( Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm
ốm đau đầu tiên trên thế giới, đánh dấu sự ra đời của BHXH. Bảo hiểm xã hội đã trở
thành một trong những quyền của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn
nhân quyền của Liên Hợp Quốc ( 10/12/1948) đã nghi: “ Tất cả mọi người với tư cách là
thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 4/6/1952, tổ chức lao động quốc
tế (ILO) đã kí công ước Giơnevơ (102) về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động” đã
khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành BHXH cho người lao động và gia đình họ.
Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của Tổ chức lao động quốc tế (ILO)
phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
19/26
Nhưng trên thực tế không phải nước nào cũng thực hiện được toàn bộ 9 chế độ trên và
không phải nước nào cũng có phạm vi, đối tượng, nguồn hình thành quỹ giống nhau.
Có nghĩa là việc thực hiện BHXH ở những nước khác nhau thì khác nhau, tuỳ theo điều
kiện cụ thể của từng nước và và hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển mà mỗi
nước có hình thức áp dụng khác nhau cho phù hợp.
Trên thế giới có 35 nước thực hiện được 9 chế độ, 37 nước chưa thực hiện được chế độ
thứ 3 ( trợ cấp thất nghiệp), 67 nước chưa thực hiện được chế độ thứ 3 và thứ 6 ( trợ cấp
thất nghiệp, trợ cấp gia đình).
Tại Việt Nam
Bảo hiểm xã hội có mầm mống dưới thời phong kiến Pháp thuộc. Sau cách mạng tháng
8/1945 Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà -nay là nước Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam, đã ban hành sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 thực hiện bảo hiểm
ốm đau, tai nạn lao động và hưu trí. Các chế độ này được thực hiện đối với những người
làm việc trong các cơ quan từ cơ sở đến Trung ương.
Tuy nhiên, do chiến tranh và khả năng kinh tế có hạn nên chỉ một bộ phận lao động xã
hội được hưởng quyền lợi BHXH.
Sau khi hoà bình lập lại, ngày 27/12/ 1961 Nhà nước ban hành Nghị định 128/CP của
Chính phủ về “Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên
chức” và được thực hiện từ ngày 1/1/1962. Sau hơn 20 năm thực hiện BHXH đối với
công nhân viên chức, các chế độ bảo hiểm xã hội đã bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó ngày
18/9/1985 Chính phủ (lúc đó là Hội Đồng Bộ Trưởng) đã ban hành Nghị định 236/
HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động.
Nội dung chủ yếu của Nghị định này là điều chỉnh mức đóng và hưởng BHXH.
Tuy nhiên chính sách BHXH ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế không phù hợp với cơ
chế mới. Vì vậy, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm
thời về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế , đánh dấu một bước đổi
mới của BHXH Việt Nam.
Tuy vậy, chỉ khi Bộ luật lao động được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 15/6/1994, điều lệ tạm thời về BHXH theo Nghị định 12/CP của
Chính phủ ban hành ngày 26/1/1995 và Nghị định 45/CP ban hành ngày 15/7/1995 cho
các đối tượng hưởng BHXH là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang, bảo hiểm xã
hội Việt Nam thực sự đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cũng như tổ chức quản
lý.
Các văn bản trên đã quy định cụ thể các chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng qua các
giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước.
20/26
Về hệ thống tổ chức quản lí:
- Trước năm 1995 do hai nghành quản lí. Ngành Lao động Thương binh Xã hội quản lí
việc thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất, còn liên đoàn lao động Việt Nam quản lí chi trả
chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, nghỉ ngơi. Từ năm 1995 đến nay Chính phủ đã
cho phép sát nhập bộ phận làm công tác BHXH ở hai ngành lại thành tổ chức mới đó là
BHXH Việt Nam, là cơ quan trực thuộc Chính phủ có hệ thống dọc ở cấp tỉnh và huyện
ở các địa phương. Về nguồn tài chính hình thành quỹ BHXH chia làm hai giai đoạn:
- Thời kì 1962- 1993: trong giai đoạn này, quỹ BHXH được hính thành từ nguồn thu
tiền đóng BHXH với quy định chỉ có người sử dụng lao động đóng và tỉ lệ đóng là 4,7%
quỹ lương, trong đó :1% do ngành lao động Thương binh xã hội và Bộ tài chính quản lí
để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất; 3,7% do Tổng Liên Đoàn Lao động quản lí để chi
trả các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Đén năm 1987 được nâng lên
15%, trong đó 8% do nghành lao động TBXH quản lí, 2% để lại đơn vị để trợ cấp khó
khăn đột xuất, 5% do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lí.
Đặc điểm nổi bật là trước năm 1987 tỷ lệ đóng góp thấp, số người hưởng chế độ BHXH
ít song tỷ trọng ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho mục tiêu này lớn. Sau năm 1987 tỷ lệ
này được nâng lên song số người hưởng tăng lên, đặc biệt từ năm 1990 với việc thực
hiện các Quyết định 176/ HĐBT và 111/CP của Chính phủ về giảm biên chế khu vực
nhà nước nên số người hưởng BHXH tăng đòi hỏi ngân sách Nhà nước phải chi bù rất
lớn.
Thời kì 1993 đến nay được đánh dấu bằng việc ban hành Nghị định 43/CP ngày 1/4/
1993 của Chính phủ. Theo Nghị định này mức thu quỹ BHXH được nâng lên 20% trong
đó một sự thay đổi căn bản đó là: người lao động phải đóng 5%, 15% còn lại do người
sử dụng lao động đóng. Quỹ BHXH trở thành nguồn tài chính tập trung tương đối độc
lập với ngân sách Nhà nước. Ngoài ra quỹ BHXH còn được bổ sung từ việc sử dụng tiền
nhàn rỗi đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh sinh lời. Khoản đầu tư này đang thấp
và sẽ được tăng dần trong các năm tiếp theo.
Tổng các nguồn thu BHXH tăng nhanh do cả hai nguồn ngân sách Nhà nước hỗ trợ và
tiền đóng BHXH của đơn vị sử dụng lao động và người lao động. Đó là kết quả hoạt
động của việc thực hiện điều lệ BHXH ban hành theo Nghị định 12/CP theo tổ chức
mới. Việc hình thành một hệ thống BHXH tập trung đảm bảo thu phí BHXH kịp thời và
đầy đủ hơn làm tăng khá nhanh quỹ BHXH. Nguồn từ ngân sách Nhà nước để chi trả
cho những người hưởng BHXH trước tháng 1 năm 1995.
Nhìn chung sự hình thành quỹ BHXH đã dần dần đi vào ổn định, mang tính quy luật
chung. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân ngân sách nhà nước phải hỗ trợ kéo dài nhiều
năm, nhưng xu hướng giảm dần, còn chi BHXH từ quỹ (chi cho những người về nghỉ
21/26
hưu sau 1/1/1995) sẽ tăng lên do vậy cần phải có các giải pháp để tăng nhanh nguồn thu
BHXH.
Hiện nay các hoạt động đầu tư được Chính phủ cho phép:
- Mua trái phiếu tín phiếu của kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại Nhà
nước.
- Cho vay( Ngân sách Nhà nước vay), quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia vay, các ngân hàng
thương mại Nhà nước vay.
- Đầu tư vào một số dự án và Doanh nghiệp lớn của Nhà nước được Chính phủ cho
phép.
Tiền sinh lời được sử dụng như sau:
- Trích 50% trong 5 năm để bổ sung vốn đầu tư từ xây dựng cơ sở vật chất toàn hệ thống.
- Trích 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi bằng 3 tháng lương thực tế toàn ngành.
-Phần còn lại bổ sung vào quỹ BHXH.
22/26
Mối quan hệ giữa bảo hiểm xã hội với chính
sách xã hội và chính sách kinh tế
Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách xã hội
Chính sách xã hội là một vấn đề rộng lớn, được cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp
luật, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và từng nhóm
xã hội nói riêng, nhằm mục đích cao nhất là thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng
về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân... chính sách xã hội bao trùm lên
mọi cuộc sống của con người. Trong hệ thống các chính sách xã hội thì BHXH là một
chính sách quan trọng. Chính sách BHXH và các chính sách xã hội khác có mối quan
hệ biện chứng với nhau, các chính sách này hỗ trợ lẫn nhau để giải quyết các vấn đề xã
hội. Thực hiện tốt các chính sách xã hội sẽ góp phần thực hiện tốt chính sách BHXH và
ngược lại thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ góp phần thực hiện tốt các chính sách xã
hội khác. Chẳng hạn như chính sách tiền lương là cơ sở để xác định mức đóng BHXH,
vì vậy mức tiền lương phải đảm bảo đủ trang trải các nhu cầu cơ bản của người lao động
và phần đóng BHXH do đó chính sách tiền lương hợp lí sẽ góp phần thực hiện chính
sách bảo hiểm xã hội .
Chính sách việc làm có liên quan đến chính sách BHXH được thể hiện khá rõ nét, số
người làm việc ngày càng nhiều và mức thu nhập ổn định sẽ tạo cho BHXH có nguồn
thu ổn định; ngược lại chính sách giảm biên chế, chính sách giảm lao động làm việc
trong các doanh nghiệp như quyết định 176/HĐBT, quyết định 111/CP... dẫn đến tăng
số người về nghỉ chế độ...làm tăng nguồn chi BHXH như hiện nay ngân sách hàng năm
phải cấp bù rất lớn. Ngoài ra chính sách BHXH cũng có tác động lớn đến chính sách dân
số kế hoạch hoá gia đình, chính sách đối với những người tham gia chiến trường B,C,K.
Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế
Mối quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách kinh tế được thể hiện ở chỗ hai loại
chính sách này có giới hạn hợp lí. Nếu không xác định được giới hạn hợp lí này sẽ dẫn
đến hoặc là xây dựng một hệ thống BHXH không phù hợp khả năng và trình độ phát
triển của nền kinh tế làm cho chính sách BHXH thực thi không cao, tác động tiêu cực
đến nền sản xuất xã hội. Hoặc nếu chỉ tập trung phát triển kinh tế, coi trọng yếu tố năng
suất lao động mà không đầu tư thoả đáng cho chính sách xã hội trong đó có chính sách
BHXH sẽ làm mất ổn định xã hội. Bởi vậy thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ tạo điều
kiện để giải phóng năng lực sản xuất, tạo năng suất lao động cao, sản xuất ổn định. Mối
quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách kinh tế còn thể hiện thông qua mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế
tự thân nó không dẫn tới tiến bộ xã hội và càng không dẫn tới công bằng xã hội một
23/26
cách trực tiếp, mặc dù tăng trưởng kinh tế ở một mức độ nào đó có thể thúc đẩy tiến
bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải qua khâu phân phối mới đưa các chính sách BHXH
nói riêng và phúc lợi xã hội nói chung tới các tầng lớp dân cư. tăng trưởng kinh tế là
một điều kiện quan trọng để thực hiện chính sách BHXH có hiệu quả. Ngược lại khi
xem xét chính sách BHXH dưới góc độ một chính sách kinh tế khi hoạch định chính
sách BHXH không hợp lí, xây dựng mức đóng BHXH không phù hợp sẽ làm nâng giá
thành sản phẩm lên cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm, hạn chế tăng trưởng kinh
tế. Tuy nhiên giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách BHXH cũng có sự mâu thuẫn. Qúa
trình nâng cao hiệu quả kinh tế thường xuất hiện các hiện tượng cố tình không thực hiện
chính sách BHXH cho người lao động như đóng BHXH không đứng mức thu nhập, kí
hợp đồng lao động ngắn hạn, trang bị bảo hộ lao động không đảm bảo gây ra tai nạn lao
động- bệnh nghề nghiệp. Việc giải quyết hài hoà mối quan hệ này phụ thuộc vào bản
chất chế độ chính trị xã hội và năng lực quản lí của Nhà nước trong việc tạo điều kiện
tối ưu sự kết hợp sự phát triển kinh tế với việc thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của xã
hội gắn liền tiến bộ xã hội với sự phát triển toàn diện con người.
24/26
Tham gia đóng góp
Tài liệu: Lý luận chung về bảo hiểm xã hội
Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Bảo hiểm xã hội và sự cần thiết khách quan của bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Những nội dung cơ bản của bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
Module: Mối quan hệ giữa bảo hiểm xã hội với chính sách xã hội và chính sách kinh tế
Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
URL:
Giấy phép:
25/26
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources
– VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho
Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong
phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0
do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước
hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội.
Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành
một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi
ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học
tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn
tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu
khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của
độc giả.
Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các
tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như
đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring.
Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ
dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng
dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái
niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong
bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong
trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được
chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới.
26/26
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ly_luan_chung_ve_bao_hiem_xa_hoi.pdf