Luật hôn nhân và gia đình - Chương 5: Quan hệ giữa vợ và chồng

Quan hệ giữa vợ và chồng là các nhóm quan hệ về nhân thân và tài sản giữa vợ

và chồng, do Luật Hôn nhân và gia đình quy định, phát sinh dựa vào sự kiện kết hôn,

với đặc điểm luôn gắn liền với nhân thân của vợ chồng. Vợ chồng đều bình đẳng với

nhau về quyền và nghĩa vụ.

Nội dung quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng gồm hai nhóm quan hệ: Nhóm các

quan hệ về nhân thân và nhóm các quan hệ về tài sản, trong đó nghĩa vụ và quyền về

nhân thân là nội dung chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Nội dung các quyền và nghĩa

vụ này chịu sự quy định bởi bản chất giai cấp. Ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, quyền

và nghĩa vụ của vợ chồng được quy định khác nhau. Quan hệ pháp luật giữa vợ chồng

thể hiện tính giai cấp sâu sắc.

pdf33 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 3024 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luật hôn nhân và gia đình - Chương 5: Quan hệ giữa vợ và chồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành niên là một nghĩa vụ bắt buộc, nghĩa vụ này được hình thành trên những cơ sở quan hệ cha mẹ và con là quan hệ gần gũi và thân thiết nhất trong các quan hệ hôn nhân và gia đình, mối quan hệ thiêng liêng này dựa trên cơ sở huyết thống và nuôi dưỡng. Nhóm thứ 2: Con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có điều kiện để tự nuôi sống mình. Mức độ tàn tật của một người được xác định theo những tiêu chuẩn y học, tàn tật có thể chia thành 3 mức độ khác nhau: Những người tàn tật ở mức độ loại I và loại II là rơi vào tình trạng mất khả năng lao động thường xuyên. Những người tàn tật ở mức độ loại III vẫn tồn tại một phần khả năng lao động * Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ Con đã thành niên không sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình. 3.2 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng. Trong luật hiện hành, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng chỉ được đặt ra sau khi ly hôn. Quan hệ vợ chồng được chấm dứt bằng ly hôn phải là quan hệ vợ chồng hợp pháp. Có trường hợp sau khi ly hôn, việc kết hôn trước đó lại bị huỷ bằng một bản án hoặc quyết định của Toà án theo yêu cầu của vợ, chồng đã ly hôn hoặc của một người thứ ba; khi đó nghĩa vụ cấp dưỡng phải bị huỷ bỏ. Hơn nữa, ly hôn chỉ là một trong các điều kiện cần. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 60 quy định rằng khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng, thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Cần nhấn mạnh ba chữ đầu của điều luật - “khi ly hôn”. Trong nhiều trường hợp mỗi bên đều có cuộc sống vật chất bình thường khi ly hôn; nhưng sau đó một thời gian, một bên, do nguyên nhân gì đó khách quan hoặc chủ quan, rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Hẳn trong suy nghĩ của người làm luật, bên khó khăn trong trường hợp này 62 không thể yêu cầu bên kia cấp dưỡng. Nói rõ hơn, hoàn cảnh sống mà luật dựa vào đó để xác định liệu có hay không có nghĩa vụ cấp dưỡng của một bên đối với bên kia trong một vụ ly hôn là hoàn cảnh sống được ghi nhận tại thời điểm ly hôn. Khi đó, cấp dưỡng được coi như một biện pháp hỗ trợ cho người ly hôn tránh được những xáo trộn trong cuộc sống vật chất là hệ quả trực tiếp của sự kiện ly hôn. Nhưng, cần lưu ý rằng khác với người có quyền yêu cầu cấp dưỡng trong các trường hợp khác, người được cấp dưỡng với tư cách là vợ (chồng) ly hôn không nhất thiết phải ở trong tình trạng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Chỉ cần người này rơi vào tình trạng sống sa sút đáng kể so với trước khi ly hôn và sự sa sút đó có một trong những nguyên nhân trực tiếp là việc ly hôn, thì quyền yêu cầu cấp dưỡng được xác lập. Điều 60 quy định " Khi ly hôn, nếu bên khó khăn túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn là một nghĩa vụ cấp dưỡng có điều kiện, nó chỉ được hình thành khi có các điều kiện như: - Quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng là hợp pháp - Một bên vợ hoặc chồng khó khăn túng thiếu và có yêu cầu được cấp dưỡng mà có lý do chính đáng. - Bên vợ hoặc chồng còn lại có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. 3.3 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị em Điều 58 quy định: Trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao dodọng và không có tài sản để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên không chung sống với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi sống mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình. Em đã thành niên không chung sống với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình. 3.4 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu. Ông bà nội, ông bà ngoại không chung sống với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi sống mình và không có người cấp dưỡng theo quy định của điều 58. Cháu đã thành niên không chung sống với ông bà có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà trong trường hợp ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi sống mình và không có người cấp dưỡng theo quy định của luật này. 4. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Theo quy định của điều 61 quan hệ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau: - Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động. - Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc có tài sản để tự nuôi sống mình - Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi - Người phải cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi người được cấp dưỡng - Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng đã chết - Người được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác - Các quy định khác theo quy định của pháp luật. Thủ tục chấm dứt: Luật không có quy định cụ thể về thủ tục chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Trong các trường hợp 3,4,5,6 trên đây, nghĩa vụ cấp dưỡng có thể chấm 63 dứt một cách đương nhiên, do hiệu lực của sự kiện pháp lý dự kiến. Trong các trường hợp còn lại, việc cấp dưỡng có thể được chấm dứt theo thoả thuận giữa các bên; nếu không thoả thuận được, thì một trong hai bên sẽ kiện ra Toà án. Trong điều kiện không có quy định cụ thể của luật viết, ta nói rằng việc thoả thuận chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng có thể được đạt tới một cách mặc nhiên: người có nghĩa vụ cấp dưỡng ngưng cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không yêu cầu, không nhắc nhở, cũng không than phiền. Tuy nhiên, sẽ rất khó cho thẩm phán, nếu các bên chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo thoả thuận mặc nhiên rồi sau đó một thời gian, người có quyền được cấp dưỡng lại yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trở lại, thậm chí, cấp dưỡng cả cho thời gian giữa ngày thoả thuận mặc nhiên và ngày yêu cầu cấp dưỡng lại. Nói chung, thực tiễn giao dịch thừa nhận khái niệm “cấp dưỡng không liên tục”: nếu đến kỳ hạn cấp dưỡng mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ và người được cấp dưỡng không yêu cầu, không đốc thúc mà cũng không nêu lý do, thì có thể coi như người được cấp dưỡng không có nhu cầu được cấp dưỡng; đến hạn kế tiếp, người được cấp dưỡng có yêu cầu, thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải đáp ứng, nhưng người được cấp dưỡng chỉ có quyền đòi phần cấp dưỡng tương ứng với kỳ hạn đó chứ không thể đòi cả phần cấp dưỡng của kỳ hạn trước đó. Hiệu lực của việc chấm dứt nghĩa vụ. Việc chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ có hiệu lực về sau. Vả lại, nghĩa vụ cấp dưỡng, sau khi chấm dứt, vẫn có thể được xác lập lại một khi lại có một bên lâm vào cảnh túng thiếu và bên kia có khả năng, điều kiện cấp dưỡng. Nhưng quy tắc này chắn chắn không được áp dụng cho trường hợp người được cấp dưỡng là vợ hoặc chồng đã ly hôn và đã kết hôn với người khác. Câu hỏi ôn tập: 1. Trình bày khái niệm cấp dưỡng và phân loại nghĩa vụ cấp dưỡng. 2. Trình bày mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. 3. Trình bày các trường hợp cấp dưỡng. 64 CHƯƠNG 8 CHẤM DỨT HÔN NHÂN 1.Chấm dứt hôn nhân do một bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Khi một trong hai bên vợ chồng chết (chết tự nhiên hoặc chết về mặt pháp lý) thì quan hệ hôn nhân chấm dứt. Việc chấm dứt quan hệ hôn nhân là hậu quả tất nhiên, bởi vì hôn nhân là mối quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ này không thể tồn tại khi một bên không còn sống. Khi một bên vợ hoặc chồng chết quan hệ hôn nhân đương nhiên chấm dứt, bên còn sống không phải tiến hành đăng ký việc chấm dứt hôn nhân này tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà chỉ cần thực hiện hành vi khai tử cho bên đã chết. Sau khi một bên vợ hoặc chồng chết, bên còn sống vẫn giữ lại những lợi ích nhân thân như quốc tịch, chỗ ở vấn đề tài sản được giải quyết theo quy định của pháp luật, vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau. - Nếu hôn nhân chấm dứt do một bên vợ, chồng bị Tòa án tuyền bố là đã chết có hậu quả pháp lý như trong trường hợp chết tự nhiên. Thủ tục và các quy định về việc tuyên một người là đã chết tuân theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật tố tụng Dân sự. Quyết định của Tòa án tuyên một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân của họ đương nhiên chấm dứt. Người còn sống có quyền kết hôn với người khác. 2. Ly hôn Khoản 8 điều 8 quy định Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng. - Căn cứ cho ly hôn: là những tình tiết, điều kiện được quy định trong pháp luật. Tòa án chỉ giải quyết cho các bên vợ chồng ly hôn khi hôn nhân xét về bản chất không còn là quan hệ hôn nhân nữa. Điều 89 quy định: Thứ nhất: Tòa án xem xét yêu cầu cho ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn Nội dung của căn cứ trên được hướng dẫn cụ thể tại mục 8 Nghị quyết 02/2000 của Tòa án nhân dân tối cao. Thứ 2: theo khoản 2 điều 89 trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. 3. Các trường hợp ly hôn theo quy định của pháp luật. 3.1 Thuận tình ly hôn. Thuận tình ly hôn chỉ đặt ra trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự là việc dân sự, Tòa án không phải tiến hành thủ tục hòa giải. Trường hợp thuận tình ly hôn thì sự tự nguyện của hai vợ chồng là căn cứ để Tòa án xem xét và giải quyết, Tòa án phải làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai vợ chồng đúng bản chất khách quan của sự việc. - Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn khi có đủ các điều kiện sau: Hai bên vợ chồng thực sự tự nguyện ly hôn. Hai bên đã thỏa thuận được với nhau về việc phân chia hoặc không phân chia tài sản; việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. 65 Sự thỏa thuận của các bên về tài sản và con trong trường hợp cụ thể này bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con. 3.2 Ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng. Là trường hợp chỉ có một bên vợ hoặc chồng có đơn xin ly hôn, nó xuất phát từ ý chí của một bên vợ hoặc chồng. Theo quy định của khoản 1 điều 27 Bộ luật tố tụng Dân sự ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng là một vụ án dân sự. Điều 91 Luật hôn nhân và gia đình quy định: Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án xem xét, giải quyết việc ly hôn. Điều 180 Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án Sau khi Tòa án tiền hành hòa giải thì có thể xuất hiện hai trường hợp: - Thứ nhất: Việc hòa giải đoàn tụ thành. Tại khoản 6.2 điều 6 mục II Nghị quyết 02/2006 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “ Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng Dân sự thì khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án, thì Thẩm phán hoặc thư ký Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành phải được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải. Hết thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án và cả về án phí. Nếu các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nhưng không thỏa thuận với nhau được về trách nhiệm phải chịu án phí hoặc mức án phí thì Tòa án không công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà tiến hành mở phiên toà để xét xử vụ án. Trong trường hợp các bên chỉ thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết một phần vụ án, còn phần khác không thỏa thuận được thì Tòa án ghi những vấn đề mà đương sự thỏa thuận được và những vấn đề không thỏa thuận được vào biên bản hòa giải theo quy định tại khoản 1 điều 186 Bộ luật Tố tụng Dân sự và tiến hành ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trừ trường hợp có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án. - Thứ hai: là việc hòa giải đoàn tụ không thành, Tòa án phải đưa vụ án ra xét xử. Trong quá trình xét xử, Tòa án phải làm rõ thực chất quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng. Nếu có thể được, Tòa án phải tìm các biện pháp thích hợp để giúp hai bên nhận rõ trách nhiệm với gia đình với con cái, trở về đoàn tụ với nhau. Chỉ khi nào xét thất tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì Tòa án mới xử cho ly hôn. Những nguyên nhân dẫn đến ly hôn thì rất đa dạng, nguyên nhân hay động cơ ly hôn chỉ là tình tiết tham khảo để tìm giải pháp thích hợp nhằm hòa giải, đoàn tụ vợ chồng. Trong mọi trường hợp, Tòa án chỉ có thể dựa vào căn cứ pháp lý để giải quyết ly hôn. 3.3 Ly hôn với người bị Tòa án tuyên bố là mất tích. Theo quy định tại khoản 2 điều 89 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 79 Bộ luật Dân sự 2005 : Trong trường hợp Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao 66 cho con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản. 2.4 Các trường hợp hạn chế ly hôn. Khoản 2 điều 85 Luật hôn nhân và gia đình quy định: Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn” Đây là trường hợp hạn chế quyền yêu cầu xin ly hôn của người chồng. Quy định này nhằm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện chức năng cao quý của người mẹ, nếu người chồng ly hôn vợ trong thời gian này sẽ ảnh hưởng lớn về mặt tâm lý theo chiều hướng xấu đối với người vợ và thai nhi hoặc trẻ nhỏ, ảnh hưởng không tốt đến lợi ích của cháu bé và của người vợ. Điều kiện trên chỉ áp dụng đối với người chồng mà không áp dụng đối với người vợ, người vợ vẫn có quyền xin ly hôn khi họ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng. Đối với người có đơn yêu cầu xin ly hôn, mà bị Tòa án bác đơn, thì sau thời gian một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án bác đơn xin ly hôn có hiệu lực pháp luật, người đó mới được yêu cầu Tòa án giải quyết việc xin ly hôn. 4. Hậu quả pháp lý của việc ly hôn. 4.1 Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng: Khi bản án hoặc quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, các đương sự chấm dứt quan hệ vợ chồng chấm dứt hoàn toàn. Họ không còn nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Lúc này, người vợ, người chồng trước đây trở thành những cá nhân độc lập. Khi bản án xử cho ly hôn hay quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật thì các bên ly hôn có quyền kết hôn với người khác. 4.2 Quan hệ tài sản. - Chia tài sản khi ly hôn: Việc chia tài sản của vợ chồng theo quy định của khoản 1 điều 95 Luật hôn nhân và gia đình là “do các bên thỏa thuận”. Pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng chia tài sản khi ly hôn, tuy nhiên việc thỏa thuận này không được trái nguyên tắc mà pháp luật đã quy định. Cụ thể là sự tự thỏa thuận của vợ chồng trong quá trình chia tài sản khi ly hôn phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Các trường hợp áp dụng các nguyên tắc thanh toán tài sản chung đặc biệt. Các nguyên tắc thanh toán tài sản chung đặc biệt được áp dụng trong trường hợp cần tiến hành phân chia quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản hoặc chia nhà ở. Đó là những tài sản mà, trong khung cảnh của luật thực định, được chia theo nguyên tắc bình đẳng về hiện vật, như ta sẽ thấy sau đây. Cần nhấn mạnh rằng, dù chia theo hiện vật, quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản và nhà ở được chia trong khuôn khổ thanh toán và phân chia tài sản chung; bởi vậy, việc thanh toán phần quyền của mỗi người trong quyền sử dụng đất chung hoặc trong nhà ở chung phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng kết quả thanh toán phần quyền của mỗi người trong toàn bộ khối tài sản chung. Trong chừng mực của quy tắc đó, đâu là căn cứ để xác định phần quyền của vợ chồng đối với tài sản chia? Có lẽ cần phân biệt các giải pháp tuỳ theo tài sản chia là quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản hay nhà ở. Nội dung của các nguyên tắc thanh toán tài sản chung đặc biệt. Trong trường hợp tài sản chia là quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy 67 sản, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 điều 97 khoản 2 điểm a quy định rằng nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất, thì được chia theo thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì yêu cầu Toà án giải quyết theo điều 95 của Luật. Áp dụng điều 95, việc thanh toán phần quyền của mỗi người đối với quyền sử dụng đất loại này trước hết phải dựa vào công sức đóng góp. Tuy nhiên, là một tài sản cần được khai thác công dụng nhằm tạo ra các loại hoa lợi có thể được gọi là vừa dùng được một cách trực tiếp vào việc nuôi sống con người, vừa là nguồn tích lũy, quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản phải được chia trên cơ sở xem xét năng lực khai thác của mỗi người. Nếu năng lực khai thác của mỗi người đều ngang nhau, thì nên xem xét tổng diện tích đất cùng loại mà mỗi người đang sử dụng ở thời điểm phân chia, so với hạn mức đất tối đa mà người đó được sử dụng. Nếu không ai sử dụng đất vượt quá hạn mức, thì nên xét đến khả năng sinh lợi của khối tài sản riêng của mỗi người (tình trạng tài sản) và cả của các tài sản chung khác sẽ được chia cho mỗi người, khả năng làm nghề phụ (hoàn cảnh sống), tình hình gia đình mà mỗi người (thường là người phụ nữ) phải cưu mang,... Trường hợp tài sản chia là nhà ở, Luật nói rằng nhà ở được chia theo điều 95. Vậy nghĩa là trước hết các bên cũng có thể chia theo thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì Toà án giải quyết, cũng theo Điều 95. Việc thanh toán phần quyền của mỗi người trong tài sản chia trước hết cũng dựa vào công sức đóng góp của mỗi người và nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người vợ. Nhưng bên cạnh đó, còn có các tham số khác. Một cách hợp lý, người cùng sống với nhiều con, nói chung, với những người mà mình có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng phải có phần lớn hơn người sống một mình, do cần có một diện tích sinh hoạt đủ cho nhiều người. Cũng cần có một phần thoả đáng, người thường sử dụng mặt bằng của nhà ở để làm kinh tế gia đình, trong trường hợp người kia hoạt động nghề nghiệp ở bên ngoài. Nếu vợ chồng không thỏa thuận được thì sẽ do Tòa án giải quyết. - Tài sản riêng của vợ chồng: + Khoản 1 điều 95: Tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc sở hữu của bên đó. Khi ly hôn, người có tài sản riêng sẽ lấy phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, trong trường hợp người còn lại không phản đối. Nếu vợ hoặc chồng, phía bên còn lại phản đối cho rằng không phải là tài sản riêng của bên kia mà là tài sản chung của vợ chồng, trong trường hợp đó, pháp luật quy định người có tài sản riêng phải chứng minh.Nếu không chứng minh được thì tài sản đó được coi là tài sản chung. + Nếu vợ chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng; hoặc tài sản riêng đã được lấy ra phục vụ việc chi dùng cho nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng, mà không còn nữa thì người có tài sản riêng không có quyền đòi lại hoặc đền bù. + Nếu tài sản riêng của vợ chồng được tăng giá trị lên nhiều lần vì người có tài sản riêng đã dùng tài sản chung của vợ chồng hoặc công sức của bên chồng (vợ) phía bên còn lại để tu sửa làm tăng giá trị tài sản của mình thì tòa án cần xác định phần tăng giá trị của tài sản riêng đó và nhập phần tăng vào khối tài sản chung để đem chia. - Tài sản chung của vợ chồng: Khi vợ chồng không thể tự thỏa thuận việc chia tài sản chung, nếu họ yêu cầu tòa án sẽ tiến hành việc chia tài sản chung cho các bên vợ chồng. Theo quy định tại khoản 2 điều 95 Luật hôn nhân và gia đình hiện hành thì việc chia tài sản chung cho các bên vợ chồng phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: + Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có xem xét đến hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo 68 lập, duy trì, phát triển tài sản này.Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập. Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất (điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000) có thể phân chia. Khi chưa chia tài sản chung thì không thể xác định được tỷ lệ phần quyền của vợ hoặc của chồng trong khối tài sản chung. Cụ thể là khi chưa chia tài sản chung của vợ chồng thì không thể xác định phần tài sản nào là của chồng, phần tài sản nào là của vợ, khối tài sản chung của vợ chồng được hình thành không cần phải hai vợ chồng trực tiếp làm ra, có thể nó được làm ra bởi một bên vợ hoặc chồng. Công sức đóng góp vào việc hình thành khối tài sản chung của vợ chồng có thể nhiều hoặc ít. Tuy nhiên, quan hệ hôn nhân là một cộng đồng chung sống giữa vợ và chồng, cộng đồng chung sống này có những tính chất đặc biệt riêng của nó, cho nên pháp luật không căn cứ vào việc đóng góp công sức của các bên vợ chồng khi xác lập hình thành khối tài sản chung để phân định quyền và nghĩa vụ của họ trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật có quy định: vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung (điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Vợ chồng bình đẳng với nhau về các quyền và nghĩa vụ đối với khối tài sản chung. Phần lớn các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng tòa án sẽ áp dụng nguyên tắc chia đôi. Tuy nhiên, nguyên tắc nào cũng có ngoại lệ nhất định, nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng cũng vậy. Trong một số trường hợp để đảm bảo tính công bằng và hợp lý khi phân chia tài sản chung và đảm bảo tính công bằng hợp lý khi phân chia tài sản chung và đảm bảo quyền lợi cho các bên vợ, chồng có những trường hợp ngoại lệ, tài sản không chia đôi khối tài sản chung mà chia trên cơ sở có xem xét đến hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. + Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Nguyên tắc này được áp dụng khi chia tài sản chung nhằm mục đích bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện chức năng cao quý của người mẹ. Trên thực tế khi vận dụng nguyên tắc này vẫn còn tồn tại những cách hiểu việc phân chia tài sản chung của vợ chồng để bảo vệ quyền lợi của người vợ và các con, nghĩa là phân chia tài sản nhiều hơn cho người vợ. Hiểu như trên là không đúng với mục đích của nguyên tắc này, vì thực chất sự bảo vệ này phải được hiểu trước hết là đảm bảo cho các quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ và con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình không bị xâm phạm, không bị coi rẻ như quyền lợi vợ con trong chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến. + Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Quy định này được pháp luật đặt ra nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên trong sản xuất kinh doanh và nghề nghiệp, tránh tình trạng việc chia tài sản dẫn đến hậu quả làm mất giá trị, công dụng của tài sản phục vụ cho nghề nghiệp như phá dỡ xưởng sản xuất, nhà cửa + Tài sản chung của vợ chồng được tiến hành theo phương thức: đầu tiên chi bằng hiện vật, nếu không thể chia bằng hiện vật mới thanh toán theo giá trị và chia bằng tiền trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của các bên vợ chồng một cách công bằng và hợp lý. 69 - Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì do Tòa án giải quyết. Điều 24 quy định: Những giao dịch dân sự do một bên vợ hoặc chồng thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của gia đình cũng được coi là nghĩa vụ chung. Khi giải quyết Tòa án sẽ lấy tài sản chung để thanh toán, nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì vợ chồng sẽ phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ chung đó bằ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgtkl0003_p2_1358.pdf