Luật dân sự - Chương 7: Nghĩa vụ ngoài hợp đồng

 Thực hiện công việc không có ủy quyền

1. Khái niệm thực hiện công việc không có ủy quyền

Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ

thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích

của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không

phản đối.

Điều kiện làm phát sinh nghĩa vụ của các bên

Người thực hiện công việc không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó: Công việc

trong quan hệ pháp luật này không phải là nghĩa vụ pháp lý có tính chất bắt buộc đối

với người thực hiện công việc. Trước thời điểm thực hiện công việc, giữa hai bên chủ

thể không có sự thỏa thuận về việc thực hiện công việc. Cho nên, pháp luật quy định

người thực hiện công việc có nghĩa vụ thực hiện công việc phù hợp với khả năng và

điều kiện của mình.

Thực hiện công việc vì lợi ích của người có công việc: Việc thực hiện công việc

phải xuất phát từ nhận thức: Nếu công việc không được thực hiện có thể sẽ gây thiệt hại

cho chủ sở hữu hoặc người có công việc - người này sẽ mất đi lợi ích vật chất nhất

định. Người thực hiện công việc coi đó là bổn phận của mình và xuất phát từ lợi ích vật

chất của chủ sở hữu và người có công việc để thực hiện những hành vi phù hợp.

pdf41 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1577 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luật dân sự - Chương 7: Nghĩa vụ ngoài hợp đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à thuộc quyền sở hữu của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu đại diện. Bị chi phối bởi hình thức sở hữu đại diện của nhà nước về đất đai nên các quy định về chuyên quyền QSDĐ bị rang buộc rất chặt chẽ bởi các quy định của Nhà nước. Điều đó thể hiện ở chỗ, không phải QSDĐ nào của người sử dụng đất cũng đương nhiên là đối tượng trong các quan hệ chuyển quyền mà chỉ có những QSDĐ được nhà nước cho phép, được pháp luật chỉ định mới trở thành đối tượng của các quan hệ đó. Thứ hai, các quyền chuyển QSDĐ cụ thể có mục đích khác nhau thì mang bản chất khác nhau. Nếu nhìn nhận dưới khía cạnh kinh tế của quan hệ chuyển quyền QSDĐ trong nền kinh tế thị trường thì đa số các hình thức chuyenr quyền QSDĐ như: chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn được biểu hiện dưới hình thái giá trị, theo đó, QSDĐ được coi là một tài sản, được giao dịch trên thị trường và được trị giá thành tiền tương ứng với giá trị của diện tích đất chuyển quyền tại thời điểm thực hiện giao dịch. Trong khi đó, một số hình thức chuyển QSDĐ khác như: thừa kế, tặng cho QSDĐ là các hình thức chuyển QSDĐ tương đối đặc biệt, theo đó, quan hệ chuyển quyền này không biểu hiện dưới hình thức giá trị. Người để thừa kế, người tặng cho QSDĐ chuyển quyền cho phía bên kia – bên được thừa kế, được tặng cho QSDĐ hợp pháp của mình mà không nhận về mình bất kỳ một khoản tiền hay giá trị vật chất nào khác. Có thể thấy rằng, các quan hệ thừa kế, tặng cho QSDĐ được pháp luật ghi nhận xuất phát từ đạo lý truyền thống và mang ý nghĩa xã hội nhiều hơn là ý nghĩa kinh tế. Thứ ba, trình tự, thủ tục thực hiện các giao dịch tài sản là QSDĐ được quy định chặt chẽ hơn nhiều so với các trình tự, thủ tục thực hiện giao dịch của các tài sản khác. Để các giao dịch chuyển QSDĐ có hiệu lực, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trước Nhà nước, pháp luật còn quy định các hợp đồng chuyển QSDĐ nhất thiết phải được công chứng hoặc chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đặc biệt hơn, một số giao dịch chuyển QSDĐ cụ thể như: thế chấp và bảo lãnh QSDĐ, pháp luật còn quy định cùng tham gia song hành của hai hệ thống cơ quan có thẩm quyền – 130 cơ quan công chứng và cơ quan đăng ký trong việc kiểm tra, giám sát đối với các giao dịch này. So với các hợp đồng khác chỉ cần công chứng, chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã đủ cơ sở pháp lý để rang buộc trách nhiệm đối với các bên giao kết, cũng như trách nhiệm đối với Nhà nước, nhưng đối với hợp đồng thế chấp và bảo lãnh QSDĐ, chứng thực thôi chưa đủ cho việc bảo đảm an toàn và phòng ngừa được các rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, cũng như các chủ thể khác nên đòi hỏi chúng phải thông qua hành vi đăng ký. Và trong trường hợp này, đăng ký hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng QSDĐ mới là điều kiện có hiệu lực giao dịch. 2. Nguyên tắc chuyển quyền sử dụng đất Các nguyên tắc chuyển QSDĐ bao gồm: Thứ nhất, cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác sử dụng đất được pháp luật cho phép chuyển quyền sử dụng đất mới có quyền chuyển QSDĐ. LĐĐ 2003 cho thấy, chỉ có QSDĐ của các chủ thể sử dụng vào các mục đích sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, phi nông nghiệp và đất ở mới là đối tượng của các quan hệ chuyển QSDĐ. Cá loại QSDĐ không sử dụng với mục đích kinh doanh và đất ở như: đất sử dụng cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các mục đích sử dụng vì lợi ích chung của cộng đồng, các cơ sở tôn giáo và các mục đích chung của xã hội thì không thể là đối tượng của các quan hệ chuyển QSDĐ. Thứ hai, khi chuyển quyền sử dụng đất, các bên có quyền thỏa thuận về nội dung của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất nhưng phải phù hợp với quy định của BLDS 2005. Cụ thể, BLDS 2005 quy định các nguyên tắc khi cần thiết lập hợp đồng chuyển quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ chuyển QSDĐ. Bên cạnh đó, LĐĐ 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành với ý nghĩa là pháp luật chuyên ngành có nhiệm vụ cụ thể hóa những điều kiện về chủ thể, loại QSDĐ được tham gia quan hệ chuyển QSDĐ, về cách thức, các trình tự, thủ tục mang tính chất hướng dẫn các chủ thể xác lập, thực hiện và chấm dứt quan hệ chuyển QSDĐ. Trên cơ sở đảm bảo hài hòa và thống nhất giữa luật chung và luật riêng, giữa những nội dung manh tính nguyên tắc với những nội dung manh tính cụ thể, chuyên biệt, các quy định trong BLDS 2005 và pháp luật LĐĐ tạo ra những chuẩn mực pháp lý, khuôn mẫu để định hướng và điều chỉnh các hành vi xử sự của các bên tham gia quan hệ chuyển QSDĐ và các chủ thể khác có liên quan. Các quy định trong BLDS và LĐĐ 2003 đều hướng tới một mục tiêu chung đảm bảo cho các quan hệ chuyển QSDĐ được vận hành một cách nhanh chóng, thuận tiện, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, vì lợi ích chung của nhà nước và xã hội trên cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh các chuẩn mực pháp lý mà nhà nước đã đặt ra. Thứ ba, bên nhận chuyển quyền sử dụng đất phải sử dụng đất đúng mục đích, đúng thời hạn ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương tại thời điểm chuyển quyền sử dụng đất. Sử dụng đất đúng mục đích, đúng thời hạn trên cơ sở phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt không chỉ là quy định mang tính nguyên tắc riêng cho các quan hệ chuyển QSDĐ, mà đó còn là yêu cầu cụ thể, là nghĩa vụ đối với tất cả các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật đất đai. Nguyên tắc này một mặt định hướng cho các chủ thể tham gia quan hệ chuyển QSDĐ có ý thức tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định mà Nhà nước đã rang buộc cho mỗi chủ thể khi khi có QSDĐ hợp pháp từ Nhà nước. Mặt khác, sử dụng đất đúng 131 mục đích, đúng thời hạn trên cơ sở quy hoạch mà Nhà nước đã xác lập cũng nhằm đảm bảo công tác quản lý đất đai của Nhà nước được tập trung, thống nhất, tránh sự xáo trộn các quan hệ đất đai, giúp Nhà nước nắm chắc tình hình sử dụng đất cũng như sự biến động đất đai trên thực tế. Qua đó, có cơ chế quản lý và định hướng sử dụng đất cho phù hợp. 3. Điều kiện chuyển quyền sử dụng đất. Không phải chủ thể nào có QSDĐ cũng trở thành chủ thể đương nhiên của quan hệ chuyển quyền mà họ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Cụ thể: Thứ nhất, QSDĐ thế chấp phải thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người thế chấp. Thứ hai, QSDĐ thế chấp phải không có tranh chấp. Không có tranh chấp được hiểu là tại thời điểm tham gia quan hệ chuyển quyền, QSDĐ của bên thế chấp không có bất kỳ khiếu kiện hay bất đồng, mâu thuẫn với chủ thể nào khác. UBND xã, phường, thị trấn là cơ quan có thẩm quyền xác nhận về tình trạng đất không có tranh chấp. Trong trường hợp QSDĐ nếu có tranh chấp thì mọi quan hệ về chuyển QSDĐ sẽ không được xác lập và thực hiện cho đến khi tranh chấp đó đã được giải quyết xong bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thứ ba, QSDĐ không thuộc diện phải kê biên để dảm bảo thi hành án. Đây cũng là điều kiện cần thiết bởi ngay cả khi có QSDĐ đã được xác lập hợp pháp cho một chủ thể và không có tranh chấp với bất kỳ chủ thể nào nhưng lại đang là đối tượng trong một quan hệ khác (QSDĐ phải kê biên để đám bảo thi hành án) thì nguy cơ sẽ phát sinh tranh chấp là điều tất yếu xảy ra nếu cứ tiếp tục thực hiện quan hệ phát sinh khác nhau. Thứ tư, QSDĐ phải còn trong thời hạn được phép sử dụng đất. Đối với những loại đất có xác định thời hạn như đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng sản xuất, đất được giao hoặc trong hợp đồng thuê thì các chủ thể có QSDĐ cũng chỉ được phép thực hiện các giao dịch về QSDĐ trong khoảng thời gian Nhà nước cho phép sử dụng đất. Do vậy, việc xác lập QSDĐ cho bên nhận chuyển quyền cũng chỉ trong khoảng thời gian sử dụng đất còn lại của bên chuyển quyền mà thôi. 4. Hình thức và hiệu lực của các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất LĐĐ 2003 với tư cách là luật chuyên ngành về quản lý và sử dụng đất đai cũng quy định khá cụ thể, chi tiết từ các Điều 126 đến Điều 131 về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng QSDĐ. Theo đó, tất cả các hợp đồng chuyển QSDĐ đều phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực tại cơ quan công chứng hoặc UBND xã (đối với hộ gia đình, cá nhân ở nông thôn). Đặc biệt, ở một số giao dịch thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ, hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp lý, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên khi chúng được đăng ký tại văn phòng đăng ký QSDĐ (Điều 130, 131, LĐĐ 2003) 5. Giá chuyển quyền sử dụng đất Nhà nước chỉ điều chỉnh và can thiệp trong việc định giá QSDĐ “theo giá đất Nhà nước” duy nhất khi các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất khi thực hiền quyền thế chấp và bảo lãnh đối với loại QSDĐ này. Đây có thể coi là trường hợp “ngoại lệ” thể hiện sự can thiệp 132 sâu của Nhà nước trong việc định giá QSDĐ trong các giao dịch chuyển quyền và là sự can thiệp hợp lý, bời theo quy định của pháp luật hiện hành thì đây là chủ thể duy nhất sử dụng đất với mục đích sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận được hưởng chính sách “bao cấp” của Nhà nước, đó là sử dụng đất không phải trả tiền. Còn lại, trong hầu hết các giao dịch chuyển QSDĐ, pháp luật hoàn toàn trao quyền tự chủ và tự quyết định về giá trị của QSDĐ cho các bên. Cụ thể, không phân biệt nguồn gốc của QSDĐ phát sinh, khi đủ điều kiện thực hiện giao dịch chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật thì các bên có quyền chủ động tham khảo giá thị trường, đánh giá sự biến động của thị trường trong tương lai để định giá QSDĐ làm cơ sở cho việc thỏa thuận giá QSDĐ cho phù hợp. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích các điều kiện chuyển quyền sử dụng đất. 2. Phân tích các nguyên tắc chuyển quyền sử dụng đất 133 CHƯƠNG 12 QUAN HỆ DÂN DỰ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1. Định nghĩa quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài Nhìn tổng quan, có thể chia các quan hệ xã hội làm hai loại: các quan hệ cã hội chỉ liên quan đến duy nhất một quốc gia (xét trên các phương tiện chủ thể, sự kiện pháp lý và đối tượng) và các quan hệ liên quan đến hai hay nhiều quốc gia (còn gọi là các quan hệ quốc tế). Các quan hệ quốc tế có thể tiếp tục được phân loại làm hai loại chính: các quan hệ mang tính chất nhà nước giữa các quốc gia, cũng như với cả các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các quan hệ mang tính chất dân sự. Loại quan hệ thứ nhất được điều chỉnh bởi nganh luật công pháp quốc tế, còn loại quan hệ thứ hai do tư pháp quốc tế điều chỉnh. Trong tư pháp quốc tế, đối tượng điều chỉnh được xác định là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng (gồm quan hệ dân sự và quan hệ tố tụng dân sự) có yếu tố nước ngoài. Như vậy, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là một phần đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Tuy thế, đặt trong mối quan hệ “liên nghành”, rõ rang cũng cần có những tiếp cận mang tính chất cơ bản, bước đầu về loại quan hệ này trong môn học Luật Dân sự như một “nhịp cầu” cho việc nghiên cứu tiếp theo trong chương trình tư pháp quốc tế. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là một loại quan hệ xã hội thỏa mãn hai yếu tố cần và đủ: thứ nhất, nó là một quan hệ dân sự; và thứ hai, nó có yếu tố nước ngoài. Về mặt lý luận, yếu tố nước ngoài của quan hệ dân sự có thể rơi vao một trong ba trường hợp: chủ thể của quan hệ có yếu tố nước ngoài; sự kiện pháp lý lien quan đến quan hệ có yếu tố nước ngoài; hoặc đối tượng của quan hệ có yếu tố nước ngoài. Pháp luật thực định của Việt Nam cũng đã đi theo hướng này để xấy dựng định nghĩa về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Theo Điều 758, BLDS 2005: “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản lien quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Chiếu theo định nghĩa tại Điều 758 có thể thấy yếu tố nước ngoài của quan hệ dân sự được xác định rơi vào một trong các trường hợp sau: Thứ nhất, chủ thể tham gia quan hệ có ít nhất một trong các bên là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc cơ quan, tổ chức nước ngoài. Trong đó, người nước ngoài hiểu một cách chung nhất là người không có quốc tịch của nước sở tại. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam hoặc người có gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Thứ hai, sự kiện xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ diễn ra ở nước ngoài hoặc theo pháp luật nước ngoài. Thứ ba, đối tượng của quan hệ là tài sản nằm ở nước ngoài. 2. Đặc điểm của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Do có yếu tố nước ngoài mà quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có sự khác biệt rõ nét với quan hệ dân sự trong nước ở chỗ nó luôn lien quan tới hai hay nhiều nhà nước, cũng có nghĩa là liên quan tới hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các quốc gia, 134 chứ không đơn thuần bó hẹp trong phạm vi một nhà nước, chịu sự chi phối của một hệ thống pháp luật một quốc gia nào đó. Không chỉ thể, khác với các quan hệ quốc tế do công pháp quốc tế điều chỉnh, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài chỉ là các quan hệ mang tính chất dân sự, chứ không phải là các quan hệ mang tính chất nhà nước. Với hai sự khác biệt đó đã đưa đến một hiện tượng phổ biến, đặc thù ở quan hệ này đó là: hai hay nhiều hệ thống pháp luật cũng có thể tham gia điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài - được gọi là “xung đột pháp luật” trong tư pháp quốc tế. Chính từ các đặc điểm này dẫn tới trọng tâm của việc nghiên cứu, giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trước hết phải là việc chọn lựa hệ thống pháp luật quốc gia nào sẽ được áp dụng. Sauk hi đã xác định rõ hệ thống pháp luật nước nào thì mới tới việc áp dụng các quy định cụ thể của nước đó để làm rõ các yêu cầ, chế tài đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh. 3. Các loại nguồn luật áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam Khác với quan hệ dân sự trong nước – là quan hệ chỉ chịu sự chi phối bởi duy nhất hệ thống pháp luật Việt Nam, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam chịu sự điều chỉnh bởi ba nguồn luật trực tiếp: điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, pháp luật Việt Nam và tập quán quốc tế (Điều 759, BLDS 2005) Xét về quan hệ thứ bậc áp dụng, đặt trong bối cảnh các quy định tại khoản 2 và khoản 4, Điều 759, BLDS 2005, có thể thấy rằng: điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên được ưu tiên áp dụng, tiếp đo pháp luật Việt Nam và cuối cùng là tập quán quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh ba loại nguồn luật trực tiếp nói trên, các điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa là thành viên, pháp luật nước ngoài cũng có thể trở thành nguồn gián tiếp điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Nghĩa là các nguồn này không đương nhiên trở thành nguồn luật điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế mà chỉ có thể được áp dụng sau khi đã có viện dẫn các loại nguồn trực tiếp đã nói. Xét trong bối cảnh pháp luật Việt Nam hiện hành thì điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa là thành viên có thể trở thành nguồn luật gián tiếp khi được các bên chủ thể trong hợp đồng thỏa thuận áp dụng. Chẳng hạn, với sự cho phép của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như pháp luật Việt Nam thì các bên trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài nói chung có quyền thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng cho nội dung hợp đồng. Nếu các bên chủ thể hợp đồng lựa chọn pháp luật áp dụng là Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước này Việt Nam chưa là thành viên) thì khi đó Công ước Viên sẽ có thể trở thành nguồn điều chỉnh cho hợp đồng ấy. Pháp luật nước ngoài có thể trở thành nguồn gián tiếp ở một trong hau trường hợp: được quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc pháp luật Việt Nam dẫn chiếu đến hoặc được các bên chủ thể trong hợp đồng thỏa thuận áp dụng. Cũng cần nhận thức rằng, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành (khoản 3, Điều 759, BLDS 2005) thì điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa là thành viên và pháp luật nước ngoài với tư cách là nguồn luật gián tiếp khi được các bên chủ thể trong hợp đồng thỏa thuận chỉ được áp dụng nếu như sự thỏa thuận ấy được pháp luật cho phép. Trường hợp pháp luật nước ngoài được điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hay pháp luật Việt Nam dẫn chiếu tới thì nó cũng chỉ được áp dụng neeys không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. 135 Cũng liên quan đến vấn đề áp dụng nguồn luật, với tư tưởng coi sự dẫn chiếu quy phạm xung đột tới pháp luật của một nước nào là dẫn chiếu đến toàn bộ hệ thống pháp luật nước đó, cộng hợp với tiêu chí dẫn chiếu của quy phạm xung đột các nước về cũng một cần đề có thể không giống nhau đã làm phát sinh hiện tượng dẫn chiếu ngược. Theo đó, pháp luật Việt Nam dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam. Để xử lý tình trạng này, cũng giống như các nước trên thế giới, giải pháp của chúng ta là khi đó pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng (xem khoản 3, Điều 759, BLDS 2005) 3. Một số quan hệ có yếu tố nước ngoài Bên cạnh việc đưa ra những quy định mang tình tổng quan cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các tập quán quốc tế còn đưa ra những quy định dành cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cụ thể. Lẽ dĩ nhiên, mối quan hệ giữa các quy định tổng quan với các quy định cụ thể vẫn quân theo nguyên lý: các quy định riêng được ưu tiên áp dụng, trong trường hợp ở phần quy định riêng không có thì sẽ áp dụng các quy định chung. 3.1. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài. Theo quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (vấn đề này hiện được quy định chủ yếu ở các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài) thì về nguyên tắc pháp luật của nước ký kết mà cá nhân mang quốc tịch sẽ được áp dụng để xem xét năng lực pháp lật dân sự và năng lực hành vi dân sự của người đó. Bên cạnh đó, một số Hiệp định tương trợ tư pháp còn quy định về trường hợp ngoại lệ: nếu ký kết những hợp đồng nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu thông thường của cuộc sống hằng ngày thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân sẽ được xác định theo pháp luật của nước ký kết nơi lập hợp đồng (Hiệp định Việt Nam – Liên Xô cũ; Hiệp định Việt Nam – Hunggary) Trong khi đó, theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 761, BLDS 2005) thì về nguyên tắc năng lực pháp luật của nước mà người đó là công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác. Cũng giống như năng lực pháp luật dân sự, về nguyên tắc thì năng lực hành vi dân sự của người đó được xác định theo pháp luật Việt Nam (Điều 762, BLDS 2005) 3.2. Xác định người nước ngoài không có, mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự Một số hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và nước ngoài có quy định về vấn đề xác định người mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Nhìn chung, các hiệp đụng đều thống nhất lựa chọn pháp luật của nước mà người đó là công dân để xác định các vấn đề này. Pháp luật Việt Nam (Điều 763, BLDS 2005) cũng giống như các hiệp định tương trợ tư pháp, về nguyên tắc xác định một người không có năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ dựa trên pháp luật của nước mà người đó là công dân. Tuy nhiên, nếu người nước ngoài cư trú tại Việt Nam thì những vấn đề này sẽ được xác định theo pháp luật Việt Nam. 3.3. Xác định người nước ngoài mất tích hoặc chết Về vấn đề này, nhìn chung các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp luật Việt Nam (Điều 764, BLDS 2005) đều quy định cơ bản giổng nhau. Theo đó, về nguyên tắc 136 thì việc xác định một người mất tích hoặc chết sẽ dựa trên pháp luật nước mà người đó mất tích hoặc chết. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam quy định một trường hợp ngoại lệ là nếu người nước ngoài cứ trú tại Việt Nam thì việc xác định các vấn đề này dựa vào pháp luật Việt Nam. 3.4. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài Các Hiệp định tương tự tư pháp và pháp luật Việt Nam (Điều 765, BLDS 2005) thống nhất với nhau về mặt nguyên tắc lựa chọn hệ thống pháp luật áp dụng cho trường hợp này, đó là pháp luật của nước nơi thành lập pháp nhân. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam còn đưa ra một số trường hợp ngoại lệ là khi pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của nó sẽ được xác định theo pháp luật Việt Nam. 3.5. Quyền sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài Khác với các vấn đề nói trên, pháp luật áp dụng cho quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài chưa được quy định trong các hiệp định tương trợ tư pháp hiện hành. Chiều theo pháp luật Việt Nam (Điều 766, BLDS 2005) thì về nguyên tắc quyền sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài được xác định theo pháp luật nước nơi có tài sản. Thứ nhất, quyền sỡ hữu đối với động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật do các bên liên quan lựa chọn, nếu các bên không chọn thì áp dụng pháp luật nước nơi động sạn được chuyển đến. Thứ hai, quyền sở hữu đối với tàu bay dân dụng và tàu biển tại Việt Nam tuần theo quy định về chọn luật trong pháp luật hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải Việt Nam. Căn cứ theo pháp luật Việt Nam hiện hành về hai lĩnh vực này thì nhìn chung quyền sở hữu liên quan đến tàu bay dân dụng áp dụng theo pháp luật nơi nước đăng ký tàu bay. (Điều 4, Luật Hàng không dân dụng 2006), còn quyền sở hữu liên quan đến tàu biển thì tuân theo pháp luật nước mà tàu mang cờ (Điều 3, Book Luật hàng hải 2005) Cũng liên quan đến quyền sở hữu tài sản có yếu tố nước ngoài, các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp luật Việt Nam (Điều 766, BLDS 2005) đều thống nhất trong việc chọn pháp luật nước nơi có tài sản để giải quyết vấn đề phân biệt tài sản là động sản hay bất động sản. 3.6. Thừa kế có yếu tố nước ngoài Thừa kế theo pháp luật Các Hiệp định tương trợ tư pháp cũng như pháp luật Việt Nam (Điều 767, BLDS 2005) chia di sản thừa kế làm hai loại: động sản và bất động sản. Việc thừa kế theo pháp luật đối với động sản sẽ áp dụng pháp luật của nước mà người để lại di sản là công dân vào thời điểm chết. Trong khi đó thừa kế theo pháp luật đối với di sản là bất dộng sản thì chiếu theo pháp luật của nước ký kết nơi có bất động sản đó. Thừa kế theo di chúc Về năng lực lập, thay đổi, hủy bỏ di chúc thì kể cả các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp luật Việt Nam (khoản 1, Điều 768, BLDS 2005) đều áp dụng pháp luật nước mà người lập di chúc là công dân vào thời điểm lập di chúc. Đối với hình thức của di chúc, theo các hiệp định tương trợ tư pháp về nguyên tắc sẽ áp dụng theo pháp luật ké kết mà người lập di chúc là công dân vào thời điểm lập di chúc. Tuy thế, hình thức di chúc cũng được coi là hợp pháp nếu phù hợp với pháp luật nước ký kết nơi lập di chúc. Trong khi đó, theo pháp luật Việt Nam thì hình thưc của di chúc luôn phải tuân theo pháp luật nước nơi lập di chúc (khoản 2, Điều 768, BLDS 2005). 137 Về di sản không có người thừa kế Các Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp luật Việt Nam (khoản 3,4 Điều 767, BLDS 2005) đều quy định: di sản không có người thừa kề là động sản thuộc về nước mà người để lại di sản là công dân trước khi chết, còn di sản không người thừa kế là bất động sản thuộc về nước nơi có bất động sản đó. 3.7. Hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài Về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng Vấn đề này hiện ít được đề cập trong các hiệp định tương trợ tư pháp. Theo hiệp định Việt Nam – Nga thì pháp luật do các bên chủ thể hợp đồng lựa chọn sẽ được áp dụng để điều chỉnh nội dung hợp đồng nếu điều đó không trái với pháp luật của các nước ký kết, nếu các bên không lựa chọn pháp luật áp dụng thì áp dụng pháp luật của bên ký kết nơi bên phải thực hiện nghĩa vụ chính của hợp đồng thường trú, được thành lập hoặc có trụ sở. Đối với hợp đồng thành lập doanh nghiệp thì áp dụng pháp luật bên ký kết nơi doanh nghiệp đó cần được thành lập. Trong khi theo Hiệp định giữa Việt Nam – Belarut thì pháp luật được áp dụng để điều chỉnh nội dung hợp đồng đó là pháp luật do các bên chủ thể hợp đồng lựa chọn; nếu các bên không lựa chọn pháp luật áp dụng thì sẽ áp dụng pháp luật của nước ký kết nơi ký kết hợp đồng. Theo pháp luật Việt Nam (Điều 769, BLDS 2005), về nguyên tắc quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng được xác định theo pháp luật do các bên lựa chọn. Nếu các bên không lựa chọn thì sẽ áp dụng pháp luật nước nơi thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cũng đưa ra các tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgtkl0002_p2_6565.pdf
Tài liệu liên quan