Thương mại điện tử(TMĐT)
(*)
là một lĩnh vực tương đối mới; trong quá
trình phát triển đã có nhiều tên gọi khác nhau: “thương mại trực tuyến”
(Online trade); “thương mại điều khiển học” (Cybertrade); “kinh doanh
điện tử” (Electronic business); “thương mại không giấy tờ” (paperless
commerce hay paperless trade) v.v. Gần đây, tên gọi “thương mại điện tử”
(Electronic commerce hay E-commerce) đã trởnên quen thuộc và trởthành
quy ước chung, xuất hiện trong các văn bản pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó
các tên gọi khác vẫn được dùng và được hiểu với cùng một nội dung.
105 trang |
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1160 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Xúc tiến thương mại trong thương mại điện tử và một số giải pháp với các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG.........................................
KHOA.............................................
LUẬN VĂN
Xúc tiến thương mại trong
thương mại điện tử và một
số giải pháp với các doanh
nghiệp Việt Nam
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
1
LỜI MỞ ĐẦU
Xúc tiến thương mại là các hoạt động xúc tiến việc bán sản phẩm của các
doanh nghiệp trên thị trường nói chung và thị trường mục tiêu nói riêng. Nó
có một tác dụng hết sức to lớn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
và còn được coi là một bộ phận hữu cơ gắn liền với hoạt động sản xuất. Các
công ty trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đều mong muốn hoạt
động kinh doanh của mình được suôn sẻ, mang lại lợi nhuận cao điều đó
không ngừng thôi thúc họ tìm ra các giải pháp xúc tiến thương mại hiệu quả.
Trước đây, khi thương mại điện tử chưa ra đời, họ sử dụng các biện pháp
đơn giản hơn như sử dụng nhân viên trong công ty đi giới thiệu về sản phẩm
của công ty hoặc tiến hành quảng cáo trên các phương tiện truyền thanh,
truyền hình, hay dùng các biểu ngữ, các biển quảng cáo trên các đường phố...
Hình thức xúc tiến thương mại như vậy vừa phải bỏ ra chi phí lớn hoặc mất
nhiều thời gian mà khách hàng nhắm tới lại chủ yếu là người tiêu dùng trong
nước. Do đó, hoạt động xúc tiến thương mại truyền thống bị giới hạn về mặt
địa lý. Tuy nhiên, khi nền kinh tế số hoá ra đời, thương mại điện tử được áp
dụng vào hoạt động xúc tiến thương mại thì dường như những mặt hạn chế đó
được khắc phục.
Xúc tiến thương mại trong thương mại điện tử giúp doanh nghiệp giảm
được chi phí bởi họ có thể giới thiệu cho người tiêu dùng về sản phẩm, các
loại hình kinh doanh...của doanh nghiệp thông qua Website riêng, đồng thời
họ còn có thể thường xuyên liên hệ với các khách hàng bằng thư điện tử (E-
mail) để tìm hiểu về sở thích, nhu cầu của khách hàng, hoặc tiến hành giao
dịch trực tiếp với khách hàng qua mạng. Do đó, hoạt động xúc tiến thương
mại của doanh nghiệp vừa tiết kiệm được chi phí, lại có thể thu hút được
lượng khách hàng lớn do không bị giới hạn về mặt địa lý, không chỉ người
tiêu dùng trong nước mà cả người tiêu dùng nước ngoài cũng có thể là đối
tượng để doanh nghiệp nhắm tới.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
2
Do xúc tiến thương mại trong thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích
nên hiện nay rất nhiều công ty trên khắp toàn cầu áp dụng. Ở các nước tiên
tiến, việc đưa thương mại điện tử vào áp dụng trong hoạt động xúc tiến
thương mại đã phổ biến. Còn ở Việt Nam thì vẫn còn hạn chế, gần 90% doanh
nghiệp Việt Nam chưa thực sự quan tâm tới thương mại điện tử. Một số
doanh nghiệp Việt Nam áp dụng nhưng chưa thành công, nhiều trang Web có
nội dung tẻ nhạt, thông tin không cập nhật, việc gửi thư điện tử tới các khách
hàng hay tiến hành quảng cáo qua mạng nhiều khi không đúng lúc, không hợp
lý, dẫn đến gây sự khó chịu cho khách hàng. Do đó, các doanh nghiệp Việt
Nam cần có những giải pháp phù hợp để xây dựng nên một chiến lược xúc
tiến thương mại thành công. Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã mạnh dạn chọn
đề tài “Xúc tiến thương mại trong thương mại điện tử và một số giải pháp
với các doanh nghiệp Việt Nam” làm mục tiêu nghiên cứu của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khoá luận gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về thương mại điện tử
Chương II: Xúc tiến thương mại trong thương mại điện tử và một số
bài học kinh nghiệm rút ra với Việt Nam
Chương III: Giải pháp ứng dụng xúc tiến thương mại trong thương mại
điện tử tại Việt Nam
Trong quá trình viết khóa luận, em đã nhận được sự giúp đỡ hết sức quý
báu của các thầy, cô giáo trong khoa Kinh Tế Ngoại Thương, đặc biệt là sự
giúp đỡ tận tình của thầy giáo Nguyễn Quang Hiệp. Em xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn, các thầy cô giáo khoa Kinh Tế Ngoại
Thương, gia đình và bè bạn đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để em có thể hoàn
thành đề tài này. Tuy nhiên, do khả năng và trình độ còn nhiều hạn chế nên
khoá luận không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất mong được các
thầy, cô giáo và các bạn chỉ bảo, trao đổi thêm.
Hà nội, ngày 15 tháng 12 năm 2003
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
3
Sinh viên
Trần Thị Thuỷ
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
4
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
I/ KHÁI NIỆM VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Khái niệm, bản chất của thương mại điện tử
1.1 Khái niệm về thương mại điện tử
Thương mại điện tử (TMĐT)(*) là một lĩnh vực tương đối mới; trong quá
trình phát triển đã có nhiều tên gọi khác nhau: “thương mại trực tuyến”
(Online trade); “thương mại điều khiển học” (Cybertrade); “kinh doanh
điện tử” (Electronic business); “thương mại không giấy tờ” (paperless
commerce hay paperless trade) v..v. Gần đây, tên gọi “thương mại điện tử”
(Electronic commerce hay E-commerce) đã trở nên quen thuộc và trở thành
quy ước chung, xuất hiện trong các văn bản pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó
các tên gọi khác vẫn được dùng và được hiểu với cùng một nội dung.
Theo nghĩa phổ biến thì thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin
thương mại thông qua các phương tiện điện tử, và không cần in ra giấy trong
bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch. Thuật ngữ “thông tin”
(information) được hiểu là bao gồm: văn bản, hình ảnh, âm thanh, các cơ sở
dữ liệu (database), các bảng tính (spread sheet), hình ảnh động (video
image),...Bản chất của thương mại điện tử chính là việc sử dụng các phương
tiện điện tử để tiến hành giao dịch thương mại.
Theo Ủy ban Liên Hiệp quốc về luật thương mại quốc tế, đã được ghi trong
đạo luật mẫu về TMĐT, thuật ngữ “thương mại” cần hiểu theo nghĩa rộng để
bao quát các vấn đề nảy sinh từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại,
dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại
(commercial) bao gồm các giao dịch sau đây: Bất cứ giao dịch thương mại
* TMĐT: Thương mại điện tử-Electronic commerce
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
5
nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá, dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại
diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng (factoring); cho thuê dài hạn
(leasing); xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình (engineering);
đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác, liên doanh hoặc
các hình thức khác về hợp tác công nghệ hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng
hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường
bộ”.
Như vậy, “thương mại” (commerce) trong “thương mại điện tử” (Electronic
commerce) không chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ theo cách hiểu thông
thường, mà bao quát một phạm vi rộng hơn nhiều, và do đó việc áp dụng
thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của hầu như tất cả các
hoạt động kinh tế. Theo ước tính hiện nay thương mại điện tử có tới trên 1300
lĩnh vực ứng dụng, trong đó buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực
ứng dụng.
1.2 Đặc điểm của thương mại điện tử
Thương mại điện tử cũng như thương mại truyền thống, bao gồm các bước:
1. Người tiêu dùng và nhà cung cấp tìm kiếm lẫn nhau, người tiêu dùng
muốn tìm một nhà cung cấp đáng tin cậy, còn nhà cung cấp thì tiến
hành các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, tư vấn và các hỗ trợ khách
hàng, tạo niềm tin và lôi kéo người tiêu dùng đến với mình.
2. Đánh giá, thương lượng và thảo luận;
3. Tổ chức điều phối và giao nhận hàng hoá;
4. Thanh toán;
5. Xác nhận sự đúng đắn của mọi khâu trong quá trình mua bán.
Tuy nhiên, thương mại điện tử vẫn chứa đựng những đặc thù riêng so với
thương mại truyền thống. Đó là khả năng tạo ra một “cửa hàng ảo” (virtual
store) trên Internet ngày càng giống như thật. Các cửa hàng ảo hoạt động 24
giờ/ngày, 7 ngày/tuần, 365 ngày/năm, không có ngày nghỉ (Death of time); và
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
6
có khả năng đến mọi nơi, không bị ràng buộc bởi khoảng cách địa lý (Death
of Distance); và cũng không cần phải tiến hành giao dịch qua trung gian
(Death of Intermediary), có thể tạo một kênh tiếp thị trực tuyến (Online
Marketing), đồng thời có thể thực hiện thống kê trực tuyến. Thương mại điện
tử đặc biệt thích hợp với việc cung cấp hàng trực tuyến đối với một số dung
liệu (hàng hóa đặc biệt), hay dịch vụ như phim ảnh, âm nhạc, sách điện tử,
phần mềm, tư vấn...Yếu tố thành công trong nền kinh tế mạng không thuộc về
các công ty lớn, giàu mạnh về tiềm lực kinh tế mà phụ thuộc vào việc các
công ty có khả năng thay đổi một cách linh hoạt và thích ứng nhanh với sự
biến đổi của nền kinh tế ảo hay không hay nói cách khác các công ty phải có
tính nhạy cảm cao.
2. Quá trình hình thành thương mại điện tử
2.1 Lý do ra đời của thương mại điện tử
Thương mại điện tử ra đời như một tất yếu của quá trình phát triển trong
môi trường cạnh tranh khắc nghiệt, doanh nghiệp nào muốn tồn tại phải ứng
dụng những tiến bộ công nghệ một cách có hiệu quả. Công nghệ thông tin
mang đến những biến đổi thần kỳ trong chính bản thân nó, đồng thời lại tác
động đến hầu hết các ngành nghề trong đó có cả kinh tế. Nó làm thay đổi bộ
mặt thế giới. Sự phát triển chín muồi của các công cụ như Internet, Email,
WWW... là lý do ra đời phương thức giao dịch mới – thương mại điện tử.
Giao dịch truyền thống bằng giấy tờ vừa tốn kém lại mất nhiều thời gian.
Điều này đã gây cản trở rất lớn khi khối lượng giao dịch thương mại quốc tế
ngày càng tăng. Hơn nữa giao dịch truyền thống ngày càng bộc lộ nhiều
nhược điểm, đây là thời điểm tốt nhất để cho ra đời phương thức giao dịch
mới với nhiều ưu điểm hơn, đó là thương mại điện tử.
2.2 Quá trình hình thành của thương mại điện tử
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
7
Năm 1969, Bộ Quốc phòng Mỹ thành lập Mạng các dự án Nghiên cứu tiên
tiến (ARPANET)(1). ARPANET là mạng đầu tiên nối các tổ chức hay gọi là
INTERNET. Cùng trong thời gian này, việc tự động hoá trong ngành công
nghiệp dịch vụ tài chính bắt đầu hình thành và phát triển, chẳng hạn như quá
trình xử lý séc ra đời, tiếp theo là quá trình xử lý thẻ tín dụng và chuyển tiền
điện tử (Electronic Funds Transfer-EFT) cho phép thanh toán qua mạng và
đưa đến các nghiệp vụ ký cược và ghi nợ trực tiếp. Đầu thập niên 80, các hoạt
động thương mại điện tử trở nên mở rộng giữa các doanh nghiệp dưới các
hình thức trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange-EDI ) và thư
điện tử (E-mail). EDI cho phép các công ty gửi và nhận qua mạng các giấy tờ
kinh doanh như lệnh đặt hàng chẳng hạn. Cuối những năm 80, TMĐT đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong các hoạt động kinh doanh, mặc dù vẫn
chưa được thực hiện qua mạng Internet công cộng. Cũng trong khoảng thời
gian này, công nghệ thương mại điện tử mới ra đời với sự phát triển mạnh của
mạng Internet toàn cầu tuy còn xa lạ với người sử dụng và phần lớn các thủ
tục đều chưa thuận tiện và tự động hoá.
Năm 1992 đánh dấu sự ra đời của mạng toàn cầu (World Wide Web). Điều
này giúp cho mạng Internet dễ sử dụng hơn và giao diện cũng có tính đồ họa
hơn nếu so với những kỹ năng kỹ thuật cần thiết trước đây.
TMĐT đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu dựa trên nền tảng sự
phát triển của công nghiệp công nghệ thông tin (CNTT). Công nghiệp CNTT
đang dần dần chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của nhiều nước.
Đặc biệt là sự kết hợp hữu cơ của 3 bộ phận công nghiệp: máy tính (mạng,
máy tính, thiết bị điện tử, phần mềm và các dịch vụ khác), truyền thông (điện
thoại hữu tuyến và vệ tinh) và nội dung thông tin (cơ sở dữ liệu, các sản phẩm
nghe nhìn, vui chơi giải trí, xuất bản và cung cấp thông tin...) đang tạo ra tính
chất và vai trò mới của công nghiệp CNTT.
3. Các hình thức hoạt động và giao dịch thương mại điện tử
1 ARPANET: Advanced Research Projects Agency Network
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
8
3.1 Các hình thức hoạt động thương mại điện tử
a. Thư tín điện tử (E-mail)
Giống như trao đổi thư từ bình thường, các đối tác (người tiêu thụ, các
doanh nghiệp cơ quan Chính phủ) sử dụng thư điện tử để gửi thông tin cho
nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư tín điện tử - electronic
mail. Thư tín điện tử có tốc độ truyền nhanh, có thể gửi cùng một lúc một nội
dung cho nhiều đối tượng vào mọi lúc, ở mọi nơi trên thế giới, ngoài ra cước
phí của thư điện tử lại thấp hơn nhiều so với gửi thư qua bưu điện và điện
thoại.
b. Thanh toán điện tử (electronic payment)
Là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử (electronic message)
thay cho việc trao tay tiền mặt. Với sự phát triển của thương mại điện tử,
thanh toán điện tử đã mở rộng sang lĩnh vực mới đáng đề cập là:
Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data
Interchange, gọi tắt là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện
tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử.
Tiền mặt Internet (Internet cash): Là tiền được mua từ một nơi
phát hành (ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng), sau đó được chuyển đổi
tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet. Tiền mặt Internet
được áp dụng rộng rãi trong phạm vi một nước cũng như giữa các
quốc gia và tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hoá, vì thế tiền
mặt này cũng có tên là “tiền mặt số hoá” (digital cash). Tiền mặt
Internet được người mua hàng mua bằng đồng nội tệ, rồi dùng
Internet để chuyển cho người bán hàng. Thanh toán bằng tiền mặt
Internet đang trên đà phát triển nhanh, vì có hàng loạt ưu điểm nổi
bật:
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
9
Có thể dùng cho thanh toán những món hàng giá trị nhỏ,
thậm chí trả tiền mua báo (vì phí giao dịch mua hàng và
chuyển tiền rất thấp);
Không đòi hỏi phải có một quy chế được thoả thuận từ
trước, có thể tiến hành giữa hai con người hoặc hai công
ty bất kỳ, các thanh toán là vô danh;
Tiền mặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được
nguy cơ tiền giả.
c. Túi tiền điện tử (Electronic purse)
Túi tiền điện tử hay còn gọi là ví điện tử nói đơn giản là nơi để tiền mặt
Internet mà chủ yếu là thẻ thông minh, tiền được trả cho bất cứ ai đọc được
thẻ đó; kỹ thuật của túi tiền điện tử tương tự như kỹ thuật áp dụng cho tiền
mặt Internet.
d. Thẻ thông minh (smart card)
Nhìn bề ngoài thì nó giống thẻ tín dụng, nhưng ở mặt sau của thẻ, thay vì
cho dải từ, lại là một chíp máy tính điện tử có bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số
hoá, tiền ấy chỉ được chi trả khi người sử dụng và thông điệp (ví dụ xác nhận
thanh toán hoá đơn) được xác thực là đúng.
e. Giao dịch ngân hàng số hoá (digital banking) và giao dịch chứng khoán số hoá
(digital securities trading)
Hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng là một đại hệ thống, gồm nhiều
tiểu hệ thống: (1) thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng qua điện thoại,
giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng...; (2) thanh toán giữa
ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị,...), (3) thanh toán
trong nội bộ một hệ thống ngân hàng; (4) thanh toán giữa hệ thống ngân hàng
này với hệ thống ngân hàng khác.
f. Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange)
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
10
Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange, gọi tắt là EDI) là
chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác,
giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này
một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người (gọi là dữ liệu
có cấu trúc, vì các bên thực hiện giao dịch với nhau đã quy định trước khuôn
dạng cấu trúc của thông tin). Đây là hình thức được sử dụng phổ biến nhất.
Theo Ủy ban Liên Hiệp quốc về luật thương mại quốc tế thì: “trao đổi dữ liệu
điện tử (EDI) là việc chuyển giao thông tin từ máy tính này sang máy tính
khác bằng phương tiện điện tử, có sử dụng một tiêu chuẩn đã được thoả
thuận về cấu trúc thông tin”. EDI ngày càng được sử dụng rộng rãi trên bình
diện toàn cầu, chủ yếu phục vụ cho mua và phân phối hàng (gửi đơn hàng,
các xác nhận, các tài liệu gửi hàng, hoá đơn...) người ta cũng dùng cho các
mục đích khác, như thanh toán tiền khám bệnh, trao đổi các kết quả xét
nghiệm v.v..EDI chủ yếu được thực hiện thông qua mạng ngoài (extranet) với
nhau và thường được gọi là “mạng thương mại” (net commerce). Trước khi
có Internet đã có EDI, khi ấy người ta dùng “mạng giá trị gia tăng ” (Value
Added Network) gọi tắt là VAN để liên kết các đối tác EDI với nhau, cốt lõi
của VAN là một hệ thống điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc được
với nhau, và hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm kiếm; khi nối vào
VAN, một doanh nghiệp có thể liên lạc với nhiều máy tính điện tử nằm ở
nhiều thành phố trên thế giới.
g. Giao dịch số hoá các dung liệu – Digital Delivery of Content
Dung liệu (content) là các hàng hóa mà người ta cần đến là nội dung của nó
(hay nói cách khác chính nội dung là hàng hoá) mà không phải là bản thân vật
mang nội dung, ví dụ như: tin tức, sách báo, nhạc, phim các chương trình phát
thanh, truyền hình, chương trình phần mềm. Các ý kiến tư vấn, vé máy bay,
vé xem phim, xem hát, hợp đồng bảo hiểm...nay cũng được đưa vào danh mục
các dung liệu.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
11
Trước đây, dung liệu được giao dưới dạng hiện vật (physical form) bằng
cách đưa vào đĩa, vào băng, in thành sách báo, đóng gói bao bì chuyển đến
tay người sử dụng hoặc đến điểm phân phối (như cửa hàng, quầy báo v.v.) để
người mua đến mua và nhận trực tiếp. Ngày nay, dung liệu được số hoá và
truyền gửi theo mạng, được gọi là “giao gửi số hoá”. Vì vậy, hiện nay các loại
thông tin kinh tế và kinh doanh trên Internet đều rất phong phú, và một
nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin ngày nay là khai thác Web và
phân tích tổng hợp các thông tin nhận được.
h. Bán lẻ hàng hoá hữu hình ( Retail of tangible goods)
Tận dụng tính đa phương tiện (multimedia) của môi trường Web và Java,
người bán xây dựng trên mạng các “cửa hàng ảo” (Virtual Shop) để thực hiện
việc bán hàng. Người sử dụng Internet/Web tìm trang Web của cửa hàng, xem
hàng hoá hiển thị trên màn hình xác nhận mua và trả tiền bằng thanh toán điện
tử. Lúc đầu việc mua bán như vậy còn ở dạng sơ khai, người mua chọn hàng
rồi đặt hàng thông qua mẫu đơn (form) được đặt ngay trên trang Web.
3.2 Các hình thức giao dịch của thương mại điện tử
Hình 1: Mô hình các giao dịch thương mại điện tử
Các giao dịch TMĐT diễn ra giữa 3 nhóm tham gia chủ yếu: doanh nghiệp,
Chính phủ và người tiêu dùng. Các giao dịch này diễn ra bằng cách sử dụng
INTERNET
Người tiêu dùng,
người dân
Doanh nghiệp
Chính phủ
B2C
B2B
G2C
G2G
B2G
Doanh nghiệp
Chính phủ
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
12
các hình thức hoạt động của thương mại điện tử và được tiến hành ở nhiều
cấp độ khác nhau:
+ Doanh nghiệp với người tiêu dùng (Business to Customer – B2C)
+ Doanh nghiệp với doanh nghiệp (Business to Business – B2B)
+ Doanh nghiệp với cơ quan Chính phủ (Business to Government – B2G)
+ Người tiêu dùng với cơ quan Chính phủ (Government to Customer –
G2C)
+ Các cơ quan Chính phủ với nhau (Government to Government – G2G)
Trong các loại giao dịch nói trên thì giao dịch thương mại B2B và giao dịch
thương mại B2C là các dạng chủ yếu của thương mại điện tử.
a. Giao dịch Business to Business (B2B)
Là hình thức trong đó doanh nghiệp thực hiện giao dịch mua bán trao đổi
hàng hoá với doanh nghiệp khác thông qua các trang Web gọi là B2B.
Thực chất giao dịch điện tử giữa các doanh nghiệp thì không mới, chúng đã
tồn tại nhiều thập kỷ nay. Doanh nghiệp bắt đầu gửi và nhận các đơn đặt
hàng, hoá đơn và thông báo nhận hàng bằng EDI từ cuối những năm 1970.
Nhưng lúc bấy giờ chỉ có các doanh nghiệp lớn tham gia vì chi phí truyền dữ
liệu và chi phí đào tạo rất đắt.
Hiện nay thương mại điện tử Business to Business phát triển với tốc độ rất
nhanh, bởi nó đem lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, ví dụ như doanh
nghiệp có thể rút ngắn chu trình sản xuất nhờ kết hợp với các doanh nghiệp
khác, mỗi bên chuyên môn hoá về một lĩnh vực, hay doanh nghiệp có thể tiết
kiệm được thời gian và chi phí cho việc tìm và mua nguyên vật liệu phục vụ
cho quá trình sản xuất của mình do doanh nghiệp mua nguyên vật liệu của
nhà cung cấp là người bán hàng trực tuyến qua mạng.
b. Giao dịch Business to Customer (B2C)
Giao dịch giữa doanh nghiệp và khách hàng dưới hình thức người tiêu dùng
thực hiện mua bán hàng hoá qua trang Web gọi là B2C.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
13
Mặc dù phương thức Business to Business chiếm một tỷ trọng lớn nhưng
Business to Customer ngày nay đang có nhiều triển vọng phát triển vì hiện
nay nhiều gia đình muốn tiết kiệm thời gian đi mua hàng bằng cách chỉ ngồi ở
nhà nhấn chuột vào màn hình thì họ đã có thể yêu cầu người bán giao hàng
đến tận nhà hoặc người tiêu dùng có thể dùng ngay dịch vụ của nhà cung cấp
trên mạng điển hình là các hoạt động vui chơi, giải trí như nghe nhạc, đọc
truyện, đọc báo, xem phim v.v..
Hàng hóa trao đổi trên Internet giờ đây không chỉ là hàng hoá hữu hình mà
cả hàng hoá vô hình. Giao dịch truyền thống mất dần lợi thế so với giao dịch
điện tử.
+ Hàng hoá vô hình:
Phần lớn các giao dịch điện tử hàng hoá vô hình đều được đưa trực tiếp đến
máy tính cá nhân người tiêu thụ thông qua mạng. Các hàng hóa này gồm 4
lĩnh vực: giải trí, du lịch, báo và tạp chí, dịch vụ tài chính và Email.
+ Hàng hóa hữu hình:
Hàng hoá được bán chủ yếu bằng phương thức điện tử là sách vở, quần áo,
thực phẩm và nước giải khát. Người ta đang mở rộng các hàng hoá giao dịch
trên mạng kể cả các vật dụng gia đình...
c. Giao dịch giữa doanh nghiệp với các cơ quan Chính phủ (B2G)
Thương mại điện tử giữa công ty và Chính phủ bao gồm toàn bộ các giao
dịch thương mại giữa các công ty và các tổ chức Chính phủ thông qua các
phương tiện điện tử. Hình thức này có thể phát triển nhanh chóng nếu như có
một hệ thống quản lý thống nhất về thuế, thanh toán bằng tài khoản trực tiếp
trên mạng Internet giữa doanh nghiệp và Nhà nước.
Mục đích của các giao dịch này là Chính phủ có thể mua sắm trực tiếp từ
các doanh nghiệp thông qua mạng Internet, việc thanh toán cũng được chi trả
thông qua mạng cũng như việc doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước và các
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
14
khoản thu khác mà Nhà nước thu từ doanh nghiệp đều được thực hiện qua
mạng.
Mô hình giao dịch giữa các công ty và Chính phủ sẽ được phát triển mạnh
mẽ khi có mạng liên kết giữa các cơ quan quản lý từ Trung ương tới địa
phương, bởi việc quản lý thông qua mạng Internet sẽ giúp giảm đáng kể khối
lượng công việc quản lý cũng như chi phí ngân sách của Nhà nước trong việc
này.
d. Giao dịch giữa người tiêu dùng với các cơ quan Chính phủ (G2C)
Thương mại điện tử giữa người tiêu dùng với các cơ quan Chính phủ nhằm
vào mục đích: các công dân trả tiền cho các dịch vụ công cộng của Nhà nước
như dịch vụ mua vé máy bay, mua vé tàu hoặc nộp thuế thu nhập cho Nhà
nước hay các phí, lệ phí trả cho các dịch vụ khác; còn Chính phủ thực hiện chi
trả các khoản trợ cấp xã hội cho các cá nhân thông qua mạng Internet.
Ở Singapore, Chính phủ điện tử được ra đời vào năm 2001, người tiêu
dùng có thể đặt vé máy bay qua mạng và trả tiền qua mạng. Đối với những
nhà kinh doanh bận rộn thì việc mua bán các dịch vụ hay nộp các khoản phí,
lệ phí cho Nhà nước qua mạng là một điều rất thuận tiện. Thậm chí, Chính
phủ này còn dự định giảm thiểu các thủ tục phiền hà, phức tạp và mất thời
gian hiện nay như đăng ký thành lập doanh nghiệp cũng có thể tiến hành qua
mạng.
Ở Việt Nam thì việc đăng ký thành lập doanh nghiệp cũng như việc mua vé
tàu, vé máy bay... chưa được thực hiện qua mạng một cách phổ biến, chỉ thực
hiện ở thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, nhưng trong tương lai loại
hình dịch vụ này sẽ được thực hiện do người tiêu dùng muốn giảm thiểu thời
gian đi mua hàng bằng cách chỉ ở nhà nhấp chuột thì đã có thể mua được vé
tàu, vé máy bay, họ không phải chịu cảnh chen lấn xô đẩy để mua vé như hiện
nay.
Luận văn tốt nghiệp Trần Thị Thuỷ - lớp A3 K38-KTNT
15
Đối với giao dịch giữa Chính phủ với Chính phủ thì có diễn ra nhưng
chiếm tỷ trọng rất ít, không đáng kể.
II/ NHỮNG LỢI ÍCH CƠ BẢN CỦA TMĐT
1. Tác động của TMĐT tới hiệu quả kinh tế, xã hội
1.1 TMĐT làm thay đổi quy mô thị trường - cạnh tranh toàn cầu
Với Internet các quá trình thương mại được thực hiện theo thời gian thực
(24 giờ/ngày, 365 ngày/năm), cạnh tranh trực tuyến mang tính toàn cầu do
người tiêu dùng có thể lựa chọn mua hàng hoặc dịch vụ của nhiều công ty trên
khắp thế giới thông qua mạng. Còn các công ty có cơ hội tiếp cận với một thị
trường rộng lớn đồng thời cũng phải đối mặt với thách thức cạn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 150_6123.pdf