Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, điều kiện tiền đề để các doanh nghiệp có thể thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có một số vốn nhất định. Dựa trên số vốn đó các doanh nghiệp luôn muốn tiến hành hoạt động sao cho hiệu quả nhất với chi phí thấp. Vì vậy, vấn đề khó khăn cho các doanh nghiệp là phải tìm ra cách thức sử dụng vốn đúng đắn nhằm phát huy được mọi tiềm lực bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp.
Việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả, có ý nghĩa hết sức quan trọng và là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình và tìm được chỗ đứng vững chắc trong cơ chế mới. Chính vì thế vấn đề sử dụng vốn đang là vấn đề bức xúc đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng.
Trong cơ chế bao cấp, vốn của các doanh nghiệp quốc doanh hầu hết được Nhà nước tài trợ qua việc cấp phát, số còn lại được Ngân hàng cho vay vốn lãi suất ưu đãi. Do đó các doanh nghiệp hầu như không quan tâm đến hiệu quả của việc sử dụng vốn mà trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Tình trạng lãi giả, lỗ thật, ăn mòn vào vốn xảy ra phổ biến ở các doanh nghiệp quốc doanh.
Trong tình hình mới hiện nay, các doanh nghiệp quốc doanh đã thích nghi kịp thời, tự chú trọng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, sáng tạo trong việc sử dụng vốn đảm bảo cho việc kinh doanh ổn định. Tuy nhiên bên cạnh các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, không ít doanh nghiệp còn lúng túng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm ăn có thua lỗ kéo dài, doanh thu không đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Thực tế này do nguyên nhân, mặt trong những nguyên nhân quan trọng là do việc sử dụng vốn của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Do đó đẩy mạnh việc sử dụng vốn trong các doanh nghiệp là vấn đề cần thiết, nó quyết định đến sự sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Hiểu được tầm quan trọng của vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng vốn cố định nói riêng, sau một tháng thực tập tại Hãng em quyết định chọn đề tài:
Vốn cố định và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở hãng hàng không quốc gia Việt Nam" để làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày với nội dung như sau:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn cố định và hiệu quả sử dụngv ốn cố định trong các doanh nghiệp.
Chương II: Tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Hãng hàng không quốc gia Việt Nam.
Chương III: Các giải pháp quản lý, nâng cao hiêu quả sử dụng vốn cố định tại Hãng hàng không quốc gia Việt Nam.
67 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 966 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Vốn cố định và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở hãng hàng không quốc gia Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, điều kiện tiền đề để các doanh nghiệp có thể thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh là phải có một số vốn nhất định. Dựa trên số vốn đó các doanh nghiệp luôn muốn tiến hành hoạt động sao cho hiệu quả nhất với chi phí thấp. Vì vậy, vấn đề khó khăn cho các doanh nghiệp là phải tìm ra cách thức sử dụng vốn đúng đắn nhằm phát huy được mọi tiềm lực bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp.
Việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả, có ý nghĩa hết sức quan trọng và là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp khẳng định được vị trí của mình và tìm được chỗ đứng vững chắc trong cơ chế mới. Chính vì thế vấn đề sử dụng vốn đang là vấn đề bức xúc đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng.
Trong cơ chế bao cấp, vốn của các doanh nghiệp quốc doanh hầu hết được Nhà nước tài trợ qua việc cấp phát, số còn lại được Ngân hàng cho vay vốn lãi suất ưu đãi. Do đó các doanh nghiệp hầu như không quan tâm đến hiệu quả của việc sử dụng vốn mà trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Tình trạng lãi giả, lỗ thật, ăn mòn vào vốn xảy ra phổ biến ở các doanh nghiệp quốc doanh.
Trong tình hình mới hiện nay, các doanh nghiệp quốc doanh đã thích nghi kịp thời, tự chú trọng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, sáng tạo trong việc sử dụng vốn đảm bảo cho việc kinh doanh ổn định. Tuy nhiên bên cạnh các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, không ít doanh nghiệp còn lúng túng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm ăn có thua lỗ kéo dài, doanh thu không đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Thực tế này do nguyên nhân, mặt trong những nguyên nhân quan trọng là do việc sử dụng vốn của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Do đó đẩy mạnh việc sử dụng vốn trong các doanh nghiệp là vấn đề cần thiết, nó quyết định đến sự sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Hiểu được tầm quan trọng của vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng vốn cố định nói riêng, sau một tháng thực tập tại Hãng em quyết định chọn đề tài:
Vốn cố định và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở hãng hàng không quốc gia Việt Nam" để làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày với nội dung như sau:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn cố định và hiệu quả sử dụngv ốn cố định trong các doanh nghiệp.
Chương II: Tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Hãng hàng không quốc gia Việt Nam.
Chương III: Các giải pháp quản lý, nâng cao hiêu quả sử dụng vốn cố định tại Hãng hàng không quốc gia Việt Nam.
Chương I:
Những vấn đề cơ bản về vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các doanh nghiệp
1. Vốn cố định của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm vốn cố định của doanh nghiệp thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động chính của doanh nghiệp thương mại là kinh doanh lưu chuyển hàng hoá. Tuy nhiên, ngoài hoạt động kinh doanh thương mại, doanh nghiệp thương mại còn có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực khác mà pháp luật không cấm như sản xuất, xây dựng, vận tải, khách sạn, du lịch,… nhằm đa dạng hoá lĩnh vực hoạt động và nâng cao hiệu quả tổng vốn.
Để tiến hành các hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thương mại phải có được các yếu tố cần thiết như kho tàng, cửa hàng, văn phòng, máy móc thiết bị phương tiện vận tải, tiền mặt… Dưới góc độ hiện vật, các yếu tố này được gọi là những tài sản. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thương mại phải sử dụng một lượng vốn nhất định và thôgn qua các phương thức nhất định như đầu tư xây dựng, mua sắm, thuê mướn để hình thành các yếu tố tài sản cần thiết kể trên. Đồng thời các doanh nghiệp thương mại phải thường xuyên duy trì một lượng vốn nhất định để đảm bảo quy mô tài sản thích hợp phục vụ cho kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, có thể nói rằng vốn là điều kiện vật chất tiền đề không thể thiếu được để tiến hành mọi hoạt động kinh doanh.
Với lượng vốn cần thiết ban đầu, các doanh nghiệp thương mại sử dụng để hình thành nên các loại tài sản thích hợp bao gồm các tài sản có thời gian sử dụng, thu hồi giá trị mang tính ngắn hạn và những tài sản có thời gian sử dụng, thu hồi giá trị mang tính dài hạn. Bộ phận vốn của doanh nghiệp được dùng để hình thành nên những tài sản có thời gian sử dụng, thu hồi giá trị mang tính dài hạn được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Nói cách khác những tài sản có thời gian sử dụng, thu hồi và luân chuyển giá trị từ một năm trở lên hoặc qua nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Đặc điểm luân chuyển của vốn cố định.
Vốn cố định là bộ phận của doanh nghiệp được sử dụng để hình thành những tài sản có thời gian sử dụng, thu hồi và luân chuyển giá trị từ một năm hay chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh nghiệp trở lên. Nói cách khác vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của những tài sản sử dụng mang tính dài hạn phục vụ cho SXKD của doanh nghiệp. Do đó, sự vận động và luân chuyển của vốn cố định phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của các tài sản dài hạn và mục đích khai thác sử dụng của doanh nghiệp. Có thể khái quát những đặc điểm cơ quản về sự vận động của vốn cố định trong quá trình SXKD của doanh nghiệp như sau:
Một là, vốn cố định có tốc độ luân chuyển chậm do TSCĐ và các tài sản khác được đầu tư bằng vốn cố định tồn tại và sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, vốn cố định đầu tư vào TSCĐ được luân chuyển từng bộ phận qua các chu kỳ SXKD dưới hình thức giá trị của TSCĐ bị giảm dần và dịch chuyển vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Bộ phận vốn này chỉ hoàn thành một chu kỳ luân chuyển TSCĐ đã khấu hao hết nguyên giá.
Ba là, bộ phận vốn cố định đầu tư hình thành nên các khoản đầu tư dài hạn sẽ thu hồi toàn bộ một lần khi kết thúc hoạt động đầu tư. Còn bộ phận vốn cố định nằm trong chi phí XDCB dở dang sẽ chuyển hoá một lần và toàn bộ thành nguyên giá TSCĐ khi công trình XDCB hoàn thành.
2. Tài sản cố định của doanh nghiệp
2.1. Khái niệm TSCĐ
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành các hoạt động kinh doanh, các thương mại cần phải có được các yếu tố cần thiết bao gồm tư liệu lao động và sức doanh nghiệp lao động. Bộ phận tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử dụng dài (như nhà xưởng, văn phòng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải…) được gọi là những TSCĐ. Đây là những tư liệu lao động chủ yếu phục vụ cho các quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong nhiều chu kỳ kinh doanh. Nói cách khác, đây là bộ phận tài sản quan trọng biểu hienẹ quy mô cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp thương mại, các TSCĐ chủ yếu là hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho kinh doanh lưu chuyển hàng hoá như hệ thống cửa hàng, kho tàng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải…
Thông thường một tài sản được coi là TSCĐ nếu thoả mãn đồng thời ba điều kiện:
- Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách là tư liệu lao động.
- Có thời gian sử dụng dài, thường từ một năm trở lên.
- Có giá trị lớn đạt đến một giá trị nhất định. Tiêu chuẩn này phụ thuộc vào quy định của từng quốc gia trong từng thời kỳ.
Những tài sản không hội đủ các tiêu chuẩn kể trên được coi là những tài sản lưu động của doanh nghiệp, bao gồm những tài sản là đối tượng lao động đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và những tư liệu lao động có giá trị nhỏ hoặc thời gian sử dụng ngắn. Việc nhận biết và phân biệt TSCĐ và tài sản lưu động của doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong công tác nghiên cứu mà còn giúp cho doanh nghiệp có thể quản lý, sử dụng tài sản một cách tốt nhất. Trong thực tế, việc nhận biết TSCĐ dựa trên những tiêu chuẩn kể trên có thể gặp những khó khăn sau đây:
Một là, việc phân biệt giữa đối tượng lao động với những tư liệu lao động là TSCĐ của doanh nghiệp trong một số trường hợp nếu chỉ đơn thuần dựa vào đặc tính hiện vật thì có thể dẫn đến ngộ nhận về TSCĐ. Bởi vì có thể xảy ra cùng một TSCĐ ở trường hợp này được coi là TSCĐ nhưng ở trường hợp khác chỉ được coi là tài sản lưu động. Chẳng hạn, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng… nếu được sử dụng để phục vụ cho việc hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì coi là TSCĐ, song nếu các tài sản này là các sản phẩm mới hoàn thành quá trình sản xuất của doanh nghiệp đang được bảo quản, chờ tiêu thụ hoặc là các công trình xây dựng cơ bản chưa bàn giao, thì đó chỉ coi là đối tượng lao động thuộc tài sản lưu động của doanh nghiệp. Do đó, để nhận biết chính xác tài sản cố định trong các doanh nghiệp, ngoài đặc tính hiện vật, còn phải dựa vào tính chất, công dụng hay vai trò của TSCĐ đối với các quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, việc vận dụng máy móc các tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ kể trên có thể dẫn đến việc bỏ sót TSCĐ của doanh nghiệp. Bởi vì trong thực tế có một số tài sản là các tư liệu lao động, nếu xét riêng lẻ thì không đủ các tiêu chuẩn kể trên song tổ hợp các tài sản riêng lẻ này nếu câú thành nên một hệ thống và hệ thống đó đáp ứng đủ ba điều kiện ở trên thì vẫn được coi là TSCĐ. Chẳng hạn như, tổ hợp hay hệ thống các trang thiết bị cho một văn phòng, một phòng ở khách sạn, một phòng thí nghiệm… được coi là các TSCĐ.
2.2. Đặc điểm TSCD
khác với đối tượng lao động đặc điểm cơ bản của TSCD - những tư liệu lao động chủ yếu là chúng có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó mặc dầu TSCĐ bị hao mòn, song chúng vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu chỉ khi nào chúng bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì khi đó chúng mới được thay thế đổi mới.
Như vậy tiêu thức để phân biệt giữa đối tượng lao động với TSCĐ là không chỉ đơn thuần dựa vào thuộc tính vật chất của chúng, mà phải chủ yếu dựa vào tính chất tham gia và tác dụng của chúng trong sản xuất, kinh doanh, điều này nó được coi là TSCĐ, còn ở trường hợp khác nó lại được coi là đối tượng lao động, chẳng hạn như súc vật trong nông nghiệp nếu lấy sữa, sinh sản cày kéo thì chúng là TSCĐ, còn nếu nuôi béo để lấy thịt thì chúng lại là các công trình chưa bàn giao… không phải là TSCĐ nếu như chúng đang còn ở trong kho, đang chờ tiêu thụ, chờ thủ tục bàn giao thanh toán hoặc khi chúng là đối tượng để nghiên cứu thí nghiệm.
Bên cạnh đặc điểm nêu trên, một tư liệu lao động được coi là TSCĐ khi nó là sản phẩm của lao động, do đó TSCĐ không chỉ có giá trị sử dụng mà còn có giá trị. Nói một cách khác, TSCĐ phải là một hàng hoá như mọi hàng hoá thông thường khác, thông qua mua bán trao đổi, nó có thể được chuyển quyền sở hữu và quyền sử dụng từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác trên thị trường tư liệu sản xuất.
Trong lý luận, việc nhận thức tính hàng hoá của TSCĐ được xem như một vấn đề đơn giản tất yếu. Song trên thực tế ở nước ta, đã có một thời tính hàng hoá của TSCĐ bị xem nhẹ, TSCĐ được coi là một "hàng hoá đặc biệt" hàng hoá trên danh nghĩa, vì thế nó chỉ được phân phối cung cấp trong nội bộ khu vực kinh tế quốc doanh mà không được mua bán, trao đổi rộng rãi trên thị trường, điều này đã đưa đến hậu quả kìm hãm sức sản xuất xã hội nói chung, trong lĩnh vực kinh tế nói riêng.
Trong nền kinh tế hàng hoá, xây dựng hoặc lắp đặt những tư liệu lao động được coi là vốn cố định của doanh nghiệp, khác với đối tượng lao động, đặc điểm cơ bản của TSCĐ - những tư liệu lao động chủ yếu là chúng có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó mặt dầu TSCĐ bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì khi đó chúng mới được thay thế đổi mới.
Việc quản lý vốn cố định và TSCĐ trên thực tế là một công việc phức tạp. Để giảm nhẹ khối lượng quản lý, về tài chính kế toán người ta có những quy định thống nhất về tiêu chuẩn giới hạn về giá trị và thời gian sử dụng của một TSCĐ. Thông thường một tư liệu lao động phải được đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn dưới đây thì được coi là TSCĐ.
- Phải có thời gian sử dụng tối thiểu (thường là 1 năm trở lên)
- Phải có giá trị tối thiểu đến một mức quy định (hiện nay quy định là có giá trị từ 10 triệu đồng Việt Nam).
Nếu thiếu một trong hai điều kiện trên thì tư liệu lao động được coi là công cụ lao động và do nguồn vốn lưu động tài trợ.
Tuy nhiên do yêu cầu của công tác quản lý trong một số trường hợp đặc biệt dù giá trị đơn vị và thời gain sử dụng không đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn được coi là TSCĐ như tổ hợp các đồ dùng trong phòng làm việc, phòng họp, phòng khách, khách sạn…
Mặt khác trong doanh nghiệp có một số khoản chi đầu tư cho sản xuất kinh doanh về tính chất luân chuyển giá trị cũng tương tự như TSCĐ vì vậy được coi là các TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình) như các khoản chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng phát minh sáng chế…
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá những TSCĐ đó không chỉ được biểu hiện dưới hình thái vật chất nên còn được biểu hiện dưới hình thái giá trị để đầu tư mua sắm TSCĐ, doanh nghiệp phải bỏ ra một số tiền tệ nhất định. Vì vậy số tiền tệ ứng trước đó dùng cho việc xây dựng mua sắm TSCĐ đó được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Để quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả cần phải nghiên cứu các phương pháp phân loại về kết cấu của TSCĐ.
2.3. Phân loại TSCĐ của doanh nghiệp.
Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ hiện có của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất ddịnh nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản lý của đơn vị.
* Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện.
Theo phương pháp này, tổng thể TSCĐ thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp sẽ được chia thành hai loại như sau:
+ TSCĐ hữu hình: Là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể, chẳng hạn như văn phòng, nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải,… Theo chế độ tài chính doanh nghiệp hiện hành, một tài sản được coi là TSCĐ hữu hình nếu thoả mãn ba điều kiện sau:
- Là tư liệu lao động hữu hình, có kết cấu độc lập hoặc là 1 hệ thống bao gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện 1 hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống sẽ không thể hoạt động được, nếu toả mãn đồng thời 4 tiêu chuẩn dưới đây thì được coi là TSCĐ.
a. Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.
b. Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy.
c. Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên
d. Có giá trị từ 10.000.000đồng (mười triệu đồng) trở lên.
Trong thực tế có những hệ thống được cấu thành bởi nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính. Nhưng do yêu cầu quản lý, sử dụng đòi hỏi phải theo dõi riêng từng bộ phận tài sản thì mỗi bộ phận đó vẫn được coi là một TSCĐ hữu hình độc lập. Chẳng hạn như ghế ngồi, khung và động cơ… trong một máy bay.
+ TSCĐ vô hình: Là những tài sản cố định không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị lớn đã đầu tư có liên quan và phát huy tác dụng trong nhiều kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng phát minh sáng chế… Theo chế độ tài chính doanh nghiệp hiện hành, các khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra nếu thỏa mãn đồng thời hai điều kiện sau thì được coi là TSCĐ vô hình:
- Có thời gian sử dụng hay phát huy tác dụng tối thiểu là một năm.
- Có giá trị tối thiểu là 10.000.000đồng.
Việc phân loại TSCĐ theo tiêu thức kể trên sẽ giúp doanh nghiệp thấy được cơ cấu vốn đầu tư vào TSCĐ theo hình thái biểu hiện, từ đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư, sử dụng TSCĐ hay điều chỉnh cơ cấu này sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất.
* Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng:
Theo tiêu thức này, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành ba loại sau:
+ TSCĐ sử dụng cho mục đích kinh doanh: Đây là các tài sản do doanh nghiệp sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau nhưng nhằm mục đích kinh doanh. Chẳng hạn như kho tàng, cửa hàng, nhà xưởng, máy móc thiết bị dùng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ TSCĐ sử dụng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng. Đây là những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng trong doanh nghiệp. Chẳng hạn như nhà ăn tập thể, nhà ở tập thể, câu lạc bộ, trạm y tế, phòng học,… được coi là những TSCĐ phúc lợi, sự nghiệp.
+ TSCĐ bảo quản hộ, giữ hộ: Là những tài sản không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp có trách nhiệm bảo quản, giữ hộ cho Nhà nước hay cho doanh nghiệp khác.
Phân loại theo sử dụng sẽ giúp cho người quản lý thấy rõ kết cấu tài sản, nắm được trình độ trang thiết bị kỹ thuật của doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý tài sản và tính khấu hap chính xác. Tuy nhiên phương pháp phân loại này chưa phản ánh được tình hình sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp. Vì vậy, người ta còn sử dụng phương pháp phân loại tiếp theo.
* Phân loại TSCĐ căn cứ vào công dụng kinh tế.
Toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp dược chia thành các loại sau:
+ Nhà cửa, vật kiến trúc: đây là các TSCĐ được hình thành qua quá trình thi công, xây dựng như nhà xưởng, văn phòng, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, đường xá, cầu cống…
+ Máy móc, thiết bị: là toàn bộ các máy móc thiết bị dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc thiết bị động lực, máy công tác, thiết bị chuyên dùng, dây truyền công nghệ…
+ Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: Là các loại phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường hàng không và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống nước, đường khí đốt, băng tải…
+ Thiết bị dụng cụ quản lý: Là những thiết bị dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị điện tử phục vụ quản lý, thiết bị dụng cụ đo lường kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, hút bụi…
+ Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và (hoặc) cho sản phẩm là các vườn cây kinh doanh lâu năm như vườn chè, vườn cà phê, vườn cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm cây xanh, súc vật làm việc và (hoặc) cho sản phẩm như đàn voi, đàn bò, đàn trâu, đàn nhựa,…
Phương pháp phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ của doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp, quản lý khai thác sử dụng và trích khấu hao thích hợp.
* Phân loại tài sản theo tình hình sử dụng.
Theo tiêu thức này, tổng thể TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành các loại sau:
+ TSCĐ đang sử dụng tại doanh nghiệp: Đây là những TSCĐ của doanh nghiệp sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp.
+ TSCĐ cho thuê.
+ TSCĐ chưa cần dùng: Là những TSCĐ của doanh nghiệp cần thiết cho các hoạt động của doanh nghiệp song hiện tại chưa được đưa ra sử dụng, đang trong quá trình dự trữ, cất trữ để sử dụng sau này.
+ TSCĐ không cần dùng chờ nhượng bán, thanh lý: Là những TSCĐ không cần thiết hay không phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp hoặc đã hư hỏng cần được nhượng bán, thanh lý để giải phóng mặt bằng, thu hồi vốn đầu tư.
Cách phân loại này cho thấy tình hình khai thác sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp, từ đó có thể đề ra các biện pháp quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
* Phân loại TSCĐ căn cứ vào quyền sở hữu.
Tổng thể TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
+ TSCĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: Là các loại TSCĐ được đầu tư bằng nguồn vốn của doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền sở hữu và sử dụng chúng. Các TSCĐ này được đăng ký đứng tên doanh nghiệp.
+ TSCĐ không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: là những TSCĐ của đơn vị khác nhưng doanh nghiệp được quyền quản lý, sử dụng theo những điều kiện ràng buộc nhất định. Thuộc nhóm TSCĐ này bao gồm ba loại: TSCĐ nhận của đối tác liên doanh, TSCĐ thuê ngoài và TSCĐ nhận giữ hộ, quản lý hộ.
TSCĐ nhận của đỗi tác liên doanh sẽ được doanh nghiệp quản lý và sử dụng theo đúng hợp đồng liên doanh đã ký kết và khi kết thúc hợp đồng, việc xử lý tài sản này cũng sẽ được tiến hành theo hợp đồng hay theo thoả thuận giữa các bên.
TSCĐ thuê ngoài được hình thành theo hai phương thức: thuê tài chính và thuê hoạt động:
Thuê tài chính là hình thức thuê tài sản khi hợp đồng thuê thoả mãn một trong bốn điều kiện sau:
- Khi kết thúc thời hạn thuê theo hợp đồng, tài sản thuê sẽ được chuyển quyền sở hữu cho bên đi thuê hoặc bên đi thuê được tiếp tục thuê theo thoả thuận của hai bên.
- Khi kết thúc thời hạn thuê, bên đi thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản với giá danh nghĩa nhỏ hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại.
- Thời hạn thuê tối thiểu bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê.
- Giá trị hiện tại của tổng số tiền thuê một loại tài sản theo quy định trong hợp đồng ít nhất tương đương với giá trị của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký kết hợp đồng.
Nếu các hợp đồng thuê tài sản không thoả mãn bất kỳ điều kiện nào trong bốn điều kiện kể trên thì hình thức thuê đó được gọi là thuê hoạt đôngj.
Cách phân loại này sẽ giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được tình hình và cơ cấu TSCĐ theo quyền sở hữu, từ đó có thể đưa ra các biện pháp quản lý, sử dụng và trích khấu hao thích hợp.
3.2. Kết cấu tài sản cố định
Kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại TSCĐ nào đó so với tổng nguyên giá toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Kết cấu TSCĐ giữa các ngành sản xuất không giống nhau, thậm chí giữa các doanh nghiệp trong một ngành nào đó cũng không giống nhau, sự khác nhau hay sự biến động về kết cấu của mỗi doanh nghiệp trong các thời kỳ phụ thuộc vào các nhân tố như khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, khả năng thu hút vốn đầu tư, phương hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh, trình độ trang bị kỹ thuật, quy mô sản xuất.
Việc phân loại và phân tích tình hình kết cấu của chúng là một căn cứ quan trọng để xem xét quyết định đầu tư cũng như việc giúp cho việc tính toán chính xác khấu hao TSCĐ. Một trong những nhiệm vụ của công tác quản lý vốn cố định ở một doanh nghiệp.
II. Hiệu quả sử dụng vốn cố định và sự cần thiết phải thực hiện việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định cảu các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
1.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố đinh:
Đối với các doanh nghiệp, vốn cố định là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu vốn. Trình độ quản lý vốn cố định ảnh hưởng rất lớn đến kết quản sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, việc quản lý vốn cố định được coi là một trọng điểm của công tác tài chính doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý là làm thế nào để vốn cố định đạt hiệu quả cao nhất trong suốt quá trình tham gia vào sản xuất và mang lại lợi nhuận tối đa.
Hiệu quả sử dụng vốn cố định là mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình đầu tư, khai thác sử dụng vốn cố định vào sản xuất và số vốn cố định đã sử dụng để đạt được kết quả đó. Nó thể hiện lượng giá trị sản phẩm, hàng hoá lao vụ sản xuất ra trên 100 đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất, hay mức vốn cố định cần tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh để đặt một lượng giá trị sản phẩm hàng hoá lao vụ dịch vụ.
Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng vốn cố định phải được hiểu cả trên hai khía cạnh:
+ Với số vốn hiện có, có thể sản xuất thêm một số lượng sản phẩm với chất lượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
+ Đầu tư thêm vốn một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh số tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng của vốn. Để kiểm tra đánh giá tính hiệu quả vốn sử dụng vốn cố định của một doanh nghiệp, người ta thường dùng một hệ thống các chỉ tiêu tổng hợp các chỉ tiêu phân tích.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu suất sử dụng vốn cố định:
1.2.1. Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả sử dụng vốn
(1) Hệ số phục vụ vốn cố định
Hệ số phục vụ VCĐ
=
Doanh thu thực hiện trong kỳ
VCĐ bình quân trong kỳ
Trong đó:
Nếu số liệu vốn cố định được cung cấp vào cuối các quý:
VCĐ bình quân trong năm
=
VCĐ đầu quý 1/2 + VCĐ cuối quý I + VCĐ cuối quý II + VCĐ cuối quý III + VCĐ cuối quý IV/2
4
Nếu số liệu vốn cố định được cung cấp vào cuối các năm
VCĐ đầu kỳ (hoặc cuối kỳ)
=
Vốn cố định đầu năm + Vốn cố định cuối năm
2
VCĐ đầu kỳ (hoặc cuối kỳ)
=
Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ (cuối kỳ)
-
Số khấu hao lũy kế đầu kỳ (cuối kỳ)
+
Các khoản đầu tư dài hạn và chi phí XDCB đầu (cuối kỳ)
- ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tham gia sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thực hiện trong kỳ.
(2) Hàm lượng VCĐ: Là đại lượng nghịch đảo của hệ phục vụ vốn cố định.
Hàm lượng VCĐ
=
VCĐ bình quân trong kỳ
Doanh thu thực hiện trong kỳ
- ý nghĩa: Để tạo ra một đồng doanh thu trong kỳ thì doanh nghiệp phải sử dụng bao nhiêu đồng vốn cố định.
(3) Hệ số sinh lời của vốn cố định (tỷ lệ lợi nhuận vốn cố định)
- ý nghĩa: Trong kỳ một đồng vốn cố định tham gia sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
(4) Hệ số phục vụ bộ phận vốn cố định đầu tư cho tài sản cố định
Hệ số phục vụ của bộ phận VCĐ đầu tư TSCĐ
=
Doanh thu thực hiện trong kỳ
VCĐ đầu tư TSCĐ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1400.Doc