Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của toàn Đảng, toàn dân ta bao gồm nhiều nội dung, trong đó có các nội dung chủ yếu nhất: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền chủ nghĩa; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Các nội dung đó hoà trong một tổng thể không tách rời, không thiếu mặt nào. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền tảng vật chất cho phát triển. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bảo đảm vận hành kinh tế - xã hội theo pháp luật. Đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá được xây dựng và vận hành bởi văn hoá pháp lý. Văn hoá pháp lý trong xã hội thực sự là công cụ, đồng thời là phương thức điều hành xã hội; nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn xã hội và khoa học hiện đại, cho thấy văn hóa là một yếu tố nội sinh của xã hội, nó không chỉ là mục tiêu và kết quả mà còn là chìa khóa và động lực của sự phát triển. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước. Ở nước ta, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, trong văn kiện các kỳ Đại hội và các Hội nghị Trung ương của Đảng, đã hết sức quan tâm đến vai trò và vị trí của văn hóa. Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” [7, tr.110].
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta đã thu được nhiều kết quả to lớn trong đó có sự phát triển văn hóa. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường cũng tác động đến môi trường văn hóa, đến một số cán bộ lãnh đạo làm nảy sinh nhiều điều đáng lo ngại, như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã chỉ ra: "Tình hình tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng" [9, tr.176].
Sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân rất cần một đội ngũ cán bộ lãnh đạo có đức, có tài. Đó là những người đảm nhiệm những trọng trách ở mọi cấp, mọi ngành từ trung ương đến cơ sở, đại diện cho Đảng, Nhà nước và sự ủy quyền của nhân dân để xây dựng và thực thi các chủ trương, chính sách, pháp luật; là nhân tố có tính chất quyết định đối với công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Cán bộ lãnh đạo là người đại diện cho lợi ích của quần chúng nhân dân, lãnh đạo quần chúng nhân dân, nên phải có uy tín trước dân. Uy tín của cán bộ lãnh đạo được tạo ra từ nhiều yếu tố, trong đó có văn hóa pháp lý.
Tuy nhiên, trình độ văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là của đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay còn nhiều bất cập. Điều này được thể hiện thông qua nhiều hạn chế về chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là thông qua năng lực vận dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Những hạn chế đó không những không phát huy được sức mạnh và quyền lực của người lãnh đạo, mà có nơi còn gây nên những hậu quả, tác hại to lớn về người và của, làm suy giảm uy tín của người cán bộ lãnh đạo trong nhân dân.
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, việc tích lũy kiến thức pháp luật dưới dạng kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo là cần thiết, nhưng cũng phải thấy rằng, đã đến lúc cần đào tạo một cách cơ bản, chính quy về kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Nhu cầu công tác đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo phải có trình độ văn hóa pháp lý tương ứng với cương vị mà họ đảm nhiệm.
95 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của toàn Đảng, toàn dân ta bao gồm nhiều nội dung, trong đó có các nội dung chủ yếu nhất: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền chủ nghĩa; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Các nội dung đó hoà trong một tổng thể không tách rời, không thiếu mặt nào. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền tảng vật chất cho phát triển. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bảo đảm vận hành kinh tế - xã hội theo pháp luật. Đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá được xây dựng và vận hành bởi văn hoá pháp lý. Văn hoá pháp lý trong xã hội thực sự là công cụ, đồng thời là phương thức điều hành xã hội; nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn xã hội và khoa học hiện đại, cho thấy văn hóa là một yếu tố nội sinh của xã hội, nó không chỉ là mục tiêu và kết quả mà còn là chìa khóa và động lực của sự phát triển. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước. ở nước ta, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, trong văn kiện các kỳ Đại hội và các Hội nghị Trung ương của Đảng, đã hết sức quan tâm đến vai trò và vị trí của văn hóa. Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” [7, tr.110].
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta đã thu được nhiều kết quả to lớn trong đó có sự phát triển văn hóa. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường cũng tác động đến môi trường văn hóa, đến một số cán bộ lãnh đạo làm nảy sinh nhiều điều đáng lo ngại, như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã chỉ ra: "Tình hình tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng" [9, tr.176].
Sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân rất cần một đội ngũ cán bộ lãnh đạo có đức, có tài. Đó là những người đảm nhiệm những trọng trách ở mọi cấp, mọi ngành từ trung ương đến cơ sở, đại diện cho Đảng, Nhà nước và sự ủy quyền của nhân dân để xây dựng và thực thi các chủ trương, chính sách, pháp luật; là nhân tố có tính chất quyết định đối với công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Cán bộ lãnh đạo là người đại diện cho lợi ích của quần chúng nhân dân, lãnh đạo quần chúng nhân dân, nên phải có uy tín trước dân. Uy tín của cán bộ lãnh đạo được tạo ra từ nhiều yếu tố, trong đó có văn hóa pháp lý.
Tuy nhiên, trình độ văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là của đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay còn nhiều bất cập. Điều này được thể hiện thông qua nhiều hạn chế về chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là thông qua năng lực vận dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Những hạn chế đó không những không phát huy được sức mạnh và quyền lực của người lãnh đạo, mà có nơi còn gây nên những hậu quả, tác hại to lớn về người và của, làm suy giảm uy tín của người cán bộ lãnh đạo trong nhân dân.
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, việc tích lũy kiến thức pháp luật dưới dạng kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo là cần thiết, nhưng cũng phải thấy rằng, đã đến lúc cần đào tạo một cách cơ bản, chính quy về kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Nhu cầu công tác đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo phải có trình độ văn hóa pháp lý tương ứng với cương vị mà họ đảm nhiệm.
Việc xây dựng và phát triển văn hóa pháp lý nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và công chức có nhận thức sâu sắc về vai trò và những giá trị xã hội của pháp luật và biết vận dụng, thực hành văn hóa pháp lý trong thực tiễn công tác. Đó là, pháp luật được xây dựng trên các giá trị tốt đẹp như lòng nhân ái, trung thực, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, sự khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý ... sẽ làm cho xã hội phát triển lành mạnh, pháp luật được tôn trọng; thức tỉnh ở mỗi con người về danh dự để chống lại mọi cám dỗ của lợi ích vật chất không chính đáng, giúp họ từ bỏ những động cơ xấu; không làm những điều trái với đạo đức và pháp luật. Với tất cả những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: "Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc tìm hiểu, làm rõ bản chất, nội dung, đặc điểm của văn hóa pháp lý chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở của văn hóa nói chung.
Nghiên cứu văn hóa trên thế giới đã từ lâu trở thành một ngành khoa học rộng lớn, trong đó được phân thành những lĩnh vực chuyên biệt. Đó là các công trình nghiên cứu của E.B. Tylor – Văn hóa nguyên thủy; G,Spencer – Chức năng thiết chế văn hóa; F.Ratxen – Vùng văn hóa; L. Phrobiniux – vùng văn hóa. Các xu hướng trong nghiên cứu văn hóa dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, sinh học xã hội, phát triển văn hóa; chức năng luận trong văn hóa; các lý thuyết cấu trúc văn hóa v,v…
Có thể nói văn hóa học đã đi sâu nghiên cứu hầu hết các khía cạnh đời sống xã hội - con người. Đó là cơ sở lý luận quý báu để đề tài này tiếp cận với văn hóa pháp lý.
ở Việt Nam, từ những năm giữa thế kỷ XX cho đến nay mấy thập niên gần đây đã xuất hiện rất nhiều công trình nghiên cứu văn hóa. Trong đó phải kể đến các tác giả như: Nguyễn Văn Huyên: Góp phần tìm hiểu văn hóa Việt Nam; Nguyễn Khánh Toàn: Đề cương lịch sử văn hóa Việt Nam; Trần Văn Giầu: Giá trị truyền thống Việt Nam; Vũ Khiêu: Bàn về văn hiến Việt Nam; Hồng Phong - Phạm Xuân Nam: Văn hóa và phát triển; Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hóa Việt Nam; Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới; Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Trường Lưu: Xây dựng văn hóa mới Việt Nam; Trần Văn Bính, Thành Duy, Huỳnh Khái Vĩnh: Văn hóa lối sống; Nguyễn Văn Huyên: Văn hóa - mục tiêu và động lực phát triển xã hội v,v…
Cho đến nay, ở nước ta cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu văn hóa về một số lĩnh vực văn hóa chuyên ngành, thí dụ như văn hóa đạo đức, văn hóa lối sống, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa công sở, văn hóa môi trường, văn hóa kinh doanh... Đó là các công trình “Văn hóa và đạo đức” do tác giả, Trường Lưu chủ biên”; “Văn hóa lối sống và xây dựng đời sống văn hóa ở Việt Nam” do tác giả Khái Vĩnh chủ biên; “Văn hóa thẩm mỹ và phát triển con người trong thế kỷ XXI” do tác giả Nguyễn Văn Huyên chủ biên: “Mấy vấn đề của văn hóa môi trường” của tác giả Đỗ Huy; “Văn hóa kinh doanh” do tác giả Đỗ Minh Cương chủ biên…
Từ năm 1995, Viện Chính trị học đã thực hiện đề tài “Văn hóa chính trị và nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo”, xuất bản sách năm 1995 do tác giả Phạm Ngọc Quang chủ biên. Vào năm 2005 Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh kết hợp với Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương tổ chức hội thảo về “Văn hóa Đảng”, đã có một số bài đăng trên một số tạp chí Trung ương và tạp chí chuyên ngành.
Tuy nhiên, lĩnh vực văn hóa liên quan chặt chẽ tới trình độ và năng lực lãnh đạo của cán bộ như văn hóa chính trị, văn hóa đảng, ở nước ta chưa được nghiên cứu nhiều. Đặc biệt văn hóa pháp lý đối với chúng ta còn quá mới mẻ. Mấy năm gần đây bắt đầu xuất hiện một vài bài viết trên tạp chí chuyên ngành. Tác phẩm "Văn hóa pháp lý Việt Nam" của Luật sư Lê Đức Tiết là một trong số ít công trình đánh dấu sự khởi đầu lý luận và thực tiễn về văn hóa pháp lý (2005). Ngoài ra có một số bài viết đăng trên các tạp chí, như: Một số ý kiến về xây dựng văn hóa pháp lý ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9 (1999); Hoạt động tư vấn pháp luật và vấn đề nâng cao văn hóa pháp lý, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1 (1999) của Luật sư Trần Quang Mỹ; Văn hóa pháp lý - dòng riêng giữa nguồn chung của văn hóa dân tộc Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10 (2004) của PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế và luận văn thạc sĩ Luật học của Phan Bạt Tố: Văn hóa pháp lý và xây dựng văn hóa pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
Vai trò quan trọng của văn hóa pháp lý và tính bức xúc của việc nâng cao văn hóa pháp lý cho cán bộ, viên chức nói chung và cán bộ lãnh đạo nói riêng còn là một lĩnh vực khoa học bị bỏ trống, cần được nhanh chóng bổ khuyết. Bản luận văn này hy vọng góp một phần nhỏ vào việc khắc phục hạn chế đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của văn hóa pháp lý; trên cơ sở thực trạng văn hóa pháp lý ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Xác định khái niệm, phân tích kết cấu, chức năng và vai trò của văn hóa pháp lý, từ đó làm rõ sự cần thiết và yêu cầu văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ thực trạng văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở địa phương tỉnh và cán bộ lãnh đạo các cấp trên địa bàn tỉnh (không tính các thành phố trực thuộc Trung ương).
- Trọng tâm của luận văn là nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực vận dụng văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay.
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nhất là những năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; các kiến thức về chính trị học, luật học, giáo dục học, đạo đức học, tâm lý quản lý lãnh đạo...
- Về phương pháp, luận văn sử dụng các phương pháp như lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, so sánh đối chiếu, điều tra xã hội học, khái quát hóa v,v...
- Luận văn sử dụng các văn kiện, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến văn hóa pháp lý, công tác cán bộ; các tài liệu, công trình khoa học có liên quan của những người đi trước.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần làm chính xác hóa và sâu sắc thêm khái niệm văn hóa pháp lý.
- Nêu nên được những yêu cầu về văn hóa pháp lý đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và thực trạng văn hóa pháp lý của họ ở nước ta hiện nay.
- Luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp nâng cao văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở địa phương.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy ở các trường chính trị tỉnh về lĩnh vực văn hóa pháp lý; là tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách nâng cao văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Văn hóa pháp lý và yêu cầu về văn hóa pháp lý
đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay
1.1. Một số vấn đề về văn hóa pháp lý
1.1.1. Khái niệm văn hóa pháp lý
Vốn là hiện tượng xã hội hết sức đa dạng, đa cấp độ, văn hóa từng được nhìn nhận theo nhiều cách thức khác nhau. ở trình độ lí luận và yêu cầu của xã hội hiện nay, văn hóa được coi là tất cả những gì liên quan đến con người, ít nhiều thể hiện được sức mạnh bản chất của con người. Theo đó, có thể hiểu: Văn hóa là những phương thức và kết quả hoạt động của con người đạt được trong lịch sử, bao gồm giá trị vật chất, giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra. Với nghĩa hẹp, văn hóa phản ánh hệ thống các giá trị và quy tắc ứng xử được xã hội chấp nhận, hàm chứa những quan điểm về mục đích và lí tưởng xã hội. Văn hóa hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Nói đến văn hóa là nói đến con người, văn hóa là thuộc tính biểu hiện bản chất xã hội của con người.
Nguyên nghĩa tiếng Latinh, khái niệm “culture” - văn hóa có nghĩa là sự trồng trọt, vun xới. Từ nghĩa gốc của nó, ta có thể hiểu, văn hóa là quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục từ những cá thể sinh học trở thành những con người. Văn hóa là môi trường thứ hai để con người trở thành chính bản thân mình.
Với cách hiểu trên đây, văn hóa có mặt trong tất cả các sản phẩm do con người tạo ra, từ công cụ sản xuất đến các vật dụng sinh hoạt, từ tri thức khoa học đến các tác phẩm nghệ thuật. Văn hóa cũng đồng thời là phương thức tạo ra các sản phẩm đó. Không chỉ có thế, văn hóa còn hiện diện và thấm sâu vào các quan hệ giữa con người với con người dù đó là quan hệ kinh tế hay quan hệ tôn giáo, quan hệ pháp luật hay quan hệ giao tiếp thông thường. Văn hóa còn là bản thân các năng lực cấu thành nhân cách con người, là tri thức, tình cảm, ý chí và mọi năng lực lao động sáng tạo...
Văn hóa tồn tại trong hai tư cách, tư cách thực thể và tư cách thăng hoa. Tư cách thực thể của văn hóa là dạng hoạt động văn hóa đặc thù mà về thực chất là hoạt động tinh thần. Khác với hoạt động kinh tế, hoạt động chính trị-xã hội, hoạt động văn hóa trong tư cách thực thể lấy sự thể hiện, thực hiện cũng như sự đối tượng hóa các sức mạnh bản chất của con người làm mục đích tự thân. Các sản phẩm, kết quả của hoạt động văn hóa (tức là các giá trị văn hóa) không đáp ứng nhu cầu thực tiễn vật chất, mà thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, tức là các nhu cầu về nhận thức, về đạo đức và thẩm mỹẳTrong trường hợp này, văn hóa hiện diện trong khoa học, giáo dục, nghệ thuật. Với tư cách thăng hoa, văn hóa bộc lộ hoặc thăng hoa trên tất cả các hoạt động và kết quả hoạt động của con người, là sự thể hiện và thực hiện những sức mạnh bản chất của con người. Trong trường hợp này, văn hóa hiện diện trước hết là kiểu trình độ, kết quả của các hoạt động kinh tế, chính trị (trong đó có pháp luật), xã hộiẳ trước hết, mang ý nghĩa chức năng hữu dụng, thỏa mãn các nhu cầu thực tiễn vật chất, thực tiễn hoạt động chính trị - xã hội của con người. Trong các hoạt động đó, giá trị văn hóa không phải là mục đích trực tiếp, chính yếu. Các sản phẩm và kết quả của các hoạt động vật chất, hoạt động chính trị - xã hội ẳchỉ là giá trị văn hóa trong chừng mực chúng thể hiện hoặc biểu trưng cho các năng lực nhận thức, sáng tạo, cho tình cảm, thị hiếuẳ của con người. Nói cách khác, trong tư cách thăng hoa, văn hóa tồn tại như là phương diện hoặc nhân tố văn hóa cấu thành các lĩnh vực hoạt động xã hội.
Sự phân chia văn hóa thành tư cách thực thể và tư cách thăng hoa chỉ mang tính chất tương đối. Vì rằng, trong bất kỳ tư cách nào, con người (với tổng thể năng lực nhân cách của họ) cũng là chủ thể của sáng tạo văn hóa và mọi thành tựu văn hóa đều phục vụ sự phát triển nhân cách của con người. Bởi vậy, chức năng chủ yếu của văn hóa là điều tiết sự phát triển của con người, nó lấy phát triển, tiến bộ làm mục đích tối hậu. Đó cũng là lý do tại sao văn hóa ngày càng thâm nhập, ngày càng thăng hoa, ngày càng có vai trò to lớn trong mọi quá trình phát triển, mọi hoạt động vì tiến bộ của con người.
Trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, văn hóa tồn tại với tư cách là sự thăng hoa trong một lĩnh vực hoạt động xã hội - chính trị đặc thù. Mức độ thăng hoa là khả năng đối tượng hóa những năng lực nhân tính trong hoạt động pháp luật, nó quy định hiệu quả và phát huy hết vai trò của pháp luật trong xã hội. Ngược lại, hiệu quả của pháp luật trong xã hội là một chỉ số, một thước đo trình độ phát triển của một nền văn hóa. Yếu tố văn hóa trong lĩnh vực pháp luật, là sự thống nhất hữu cơ giữa quá trình hoạt động sống của con người trong quan hệ pháp lý và hiệu quả đối tượng hóa năng lực của con người trong lĩnh vực đó. Do đó, phát triển yếu tố văn hóa trong lĩnh vực pháp luật không những bảo đảm nâng cao hiệu quả của pháp luật mà còn bảo đảm cho sự phát triển nhân cách của con người. Nó biến hoạt động pháp luật với tư cách là một lĩnh vực hoạt động xã hội - chính trị thành một lĩnh vực hoạt động sáng tạo theo quy luật của cái đẹp.
Như mọi lĩnh vực hoạt động xã hội khác, lĩnh vực pháp luật ở nước ta hiện nay, hơn lúc nào hết đòi hỏi phải tính đến vai trò và vị trí của nhân tố văn hóa. Nói khác đi, trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, vai trò của pháp luật đòi hỏi phải thể hiện được tối đa sức mạnh văn hóa. Hoạt động của bộ máy pháp luật với tính cách là một bộ phận, một mắt khâu của hoạt động xã hội- chính trị, cố nhiên không lấy văn hóa làm mục đích trực tiếp. Nhưng khi là địa bàn, là phương thức để con người thể hiện và thực hiện những năng lực nhân tính, đồng thời đối tượng hóa những năng lực ấy thì trong hoạt động pháp luật cũng hiện diện như một tư cách đặc thù của văn hóa.
Trước hết, văn hóa trong lĩnh vực pháp luật được thể hiện như một phương thức quản lý để hoàn thiện một xã hội ngày càng vì con người, ngày càng đảm bảo cuộc sống hạnh phúc cho con người. Đồng thời, nó cũng thể hiện như kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong việc xây dựng các bộ luật, các đạo luật và trong các lĩnh vực hoạt động pháp luật khác hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Tính chất nhân đạo, tiến bộ và tính hướng thiện của các đạo luật không chỉ phản ánh tính chất tiến bộ của giai cấp thống trị mà còn phản ánh xu hướng phát triển của các quan hệ xã hội ngày càng hoàn thiện những giá trị nhân bản hơn. Trong bài: "Văn hóa pháp lý- dòng riêng giữa nguồn chung của văn hóa dân tộc Việt Nam” tác giả Hoàng Thị Kim Quế cho rằng:
Văn hóa pháp lý là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần thuộc lĩnh vực tác động của pháp luật được thể hiện trong ý thức và hành vi của con người. Văn hóa pháp lý là quá trình và kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực pháp luật, thể hiện trong việc xây dựng, khẳng định và giữ gìn những giá trị pháp lý… [32, tr. ].
Trong quan niệm của mình, tác giả Hoàng Thị Kim Quế đã nhìn nhận, văn hóa pháp lý vừa là kết quả vừa là phương thức hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực pháp luật, biểu hiện trong ý thức, hành vi của con người và trong những giá trị pháp lý đã được xây dựng. Gần với quan điểm trên, tác giả Lê Minh Tâm cũng cho rằng, văn hóa pháp lý là:
Tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật [35, tr.18].
Theo chúng tôi, nói tới văn hóa pháp lý cần phải nhấn mạnh tới những mặt tiến bộ của một nền pháp luật, nghĩa là một nền pháp luật có những đóng góp tích cực vào sự phát triển, tiến bộ xã hội và sự hoàn thiện nhân cách của con người.
Nếu xét từ giác độ cá nhân, người có trình độ văn hóa pháp lý là người có đầy đủ ba yếu tố, tồn tại trong thể thống nhất là tri thức, tình cảm và hành vi tích cực pháp luật. Nếu ai đó, có tri thức pháp luật nhưng lại không có tình cảm đúng đắn với pháp luật, và do đó, không có hành vi tích cực đối với pháp luật thì người đó không thể gọi là người có văn hóa pháp lý theo nghĩa đầy đủ của nó.
Với tất cả những điều trình bày trên đây, có thể nói: Văn hóa pháp lý là những giá trị nhân đạo, tiến bộ, tích cực của hệ thống pháp luật trong xã hội được thể hiện trong các bộ luật, đạo luật và thiết chế xã hội nhằm bảo đảm cho xã hội vận hành đúng yêu cầu của nó. Đồng thời, các giá trị đó còn được thẩm thấu vào nhận thức và hành động của mỗi cá nhân, biến thành nhu cầu thường trực trong hoạt động pháp lý, trong đời sống xã hội, trong ứng xử của họ.
Rõ ràng, văn hóa pháp lý là toàn bộ các giá trị tinh thần và giá trị vật chất được hình thành nên trong lĩnh vực hoạt động chính trị- pháp lý, nó vừa là phương thức vừa là kết quả hoạt động sáng tạo của con người; chi phối hành vi của các cá nhân, chi phối hoạt động của các tổ chức xã hội và của các cơ quan nhà nước. Chính vì thế để hành động được một cách đúng đắn, đầy đủ về văn hóa pháp lý, chúng ta phải có quan điểm toàn diện khái quát toàn bộ các giá trị tư tưởng của hệ thống pháp luật đã được thiết lập và sự thể hiện tư tưởng đó trong hoạt động pháp luật.
Xét về mặt kết cấu, văn hóa pháp lý là thể thống nhất của tư tưởng, tri thức pháp luật, phương thức tổ chức thực hiện pháp luật, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi xử sự tích cực của người công dân đối với pháp luật. Trước hết cần phải làm rõ văn hóa pháp lý từ mặt kết cấu. Để hiểu rõ hơn nội hàm của khái niệm văn hóa pháp lý.
1.1.2. Kết cấu của văn hóa pháp lý
1.1.2.1. ý thức, hệ tư tưởng và tâm lý pháp luật
Văn hóa là những giá trị xã hội được thể hiện qua ba yếu tố cốt lõi là ý thức (các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ); hiện thực hóa ý thức (các giá trị vật chất do con người lao động sáng tạo ra), và yếu tố hành vi, lối sống (năng lực, cách thức sử dụng các giá trị đã sáng tạo ra để đáp ứng các nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của con người). Các yếu tố này được giữ gìn, phát huy và lưu truyền qua nhiều thế hệ, hình thành bản sắc riêng của mỗi dân tộc trong từng lĩnh vực hoạt động xã hội. Theo đó chúng ta xác định, văn hóa pháp lý được cấu thành từ các yếu tố: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và các thiết chế xã hội bảo đảm pháp luật, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật.
ý thức pháp luật là sự thống nhất của tư tưởng và tâm lý pháp luật. Đó là tổng hòa các quan điểm tư tưởng, các trạng thái tâm lý thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, thể hiện sự đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội.
ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội. Nó hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của các kiểu, hình thức pháp luật trong lịch sử nhân loại. ý thức pháp luật phản ánh điều kiện tồn tại xã hội. Xã hội nào thì ý thức pháp luật đó, ý thức pháp luật thể hiện sâu sắc tính giai cấp.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có tính chất lý luận, khoa học về pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng khái niệm, phạm trù. Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các vấn đề có tính chất bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Nó là cơ sở để sáng tạo các giá trị pháp luật phổ biến, các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn trong xã hội.
ý thức pháp luật nói chung, tâm lý pháp luật nói riêng có quan hệ mật thiết với pháp luật. Điều đó không có nghĩa là khi ban hành pháp luật mọi người đều có ý thức và thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Thái độ đúng đắn đối với pháp luật chỉ có thể hình thành, xây dựng trên cơ sở ý thức pháp luật đã được định hướng phù hợp với nội dung của pháp luật.
Trong đời sống pháp luật, trước hết phải nói đến nhu cầu điều chỉnh hành vi xử sự của con người nhằm tạo lập một xã hội ổn định. Hành vi của con người không diễn ra một lần mà thường lặp đi, lặp lại nhiều lần. Từ đó, nảy sinh nhu cầu điều chỉnh các hành vi xử sự của con người. Nhu cầu sử dụng các quy tắc để điều chỉnh hành vi con người trong đời sống cộng đồng vốn tồn tại khách quan, nhưng các cá nhân khác nhau lại nhìn nhận và nảy sinh tâm lý về nhu cầu đó khác nhau. Do đó, tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng, cảm xúc đối với đời sống pháp lý.
Tâm lý pháp luật là những yếu tố có tính chất tự phát nhưng nó chịu sự chi phối của tư tưởng pháp luật. Không hình thành tâm lý pháp luật thì cũng không có ý thức pháp luật, không có ý thức pháp luật thì không thể có hành vi tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh.
Tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng, cảm xúc của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật cũng như các hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật chỉ biểu hiện cấp độ nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp luật truyền thống, kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Nói cách khác, ở cấp độ này, ý thức pháp luật mới chỉ thể hiện sự thừa nhận, tiếp thu và xử sự theo sự thừa nhận và tiếp thu điều hay lẽ phải, việc nên làm, điều cần tránh,ẳ theo tình cảm hướng thiện.
Ngoài hai bộ phận nói trên, sự kết hợp hài hòa giữa tâm lý pháp luật và tư tưởng pháp luật trong ý thức pháp luật thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội.
Với tư cách là yếu tố cơ bản và quan trọng của văn hóa pháp lý, ý thức pháp luật tích cực và tiến bộ là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội và bảo đảm cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật. Củng cố và nâng cao ý thức pháp luật trong đời sống xã hội cần định hướng và bảo đảm tính tiên tiến và bản sắc dân tộc, là hai tính chất đặc trưng cơ bản của nền văn hóa pháp lý mà chúng ta xây dựng.
Tính tiên tiến và bản sắc dân tộc của ý thức pháp luật Việt Nam được quy định bởi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- Mục lục1.doc