Quá trình mở cửa, giao lưu hợp tác quốc tế đã tạo cho cán bộ lãnh đạo tiếp cận với văn hoá, văn minh của nhân loại, góp phần nâng cao hiểu biết, nâng cao sự nhạy cảm trong giao tiếp ứng xử và đánh giá các mối quan hệ và các sự kiện trong cuộc sống. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, văn hoá chính trị có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, tổ chức và thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Khăm Muộn nói riêng và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào nói chung.
VHCT được xây dựng và phát triển sẽ giúp cho Đảng Nhân dân Cách mạng Lào với tư cách là Đảng cầm quyền nâng cao năng lực lãnh đạo, phát huy tiềm lực trí tuệ và tư tưởng của Đảng, làm cho Đảng vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ, nâng cao được uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong xã hội. Nhờ đó, Đảng có thể khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội. Bằng cách đó VHCT có tác dụng rất quan trọng để xây dựng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đồng thời vượt qua được những thách thức và nguy cơ để phát triển trong bối cảnh hiện nay. Do vậy, việc làm cho VHCT thấm sâu vào nội dung, phương pháp xây dựng Đảng về mọi mặt mà thực chất của quá trình này chính là hình thành và phát triển VHCT của Đảng, nhân cách của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo.
98 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn - Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình mở cửa, giao lưu hợp tác quốc tế đã tạo cho cán bộ lãnh đạo tiếp cận với văn hoá, văn minh của nhân loại, góp phần nâng cao hiểu biết, nâng cao sự nhạy cảm trong giao tiếp ứng xử và đánh giá các mối quan hệ và các sự kiện trong cuộc sống. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, văn hoá chính trị có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, tổ chức và thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Khăm Muộn nói riêng và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào nói chung.
VHCT được xây dựng và phát triển sẽ giúp cho Đảng Nhân dân Cách mạng Lào với tư cách là Đảng cầm quyền nâng cao năng lực lãnh đạo, phát huy tiềm lực trí tuệ và tư tưởng của Đảng, làm cho Đảng vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ, nâng cao được uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong xã hội. Nhờ đó, Đảng có thể khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội. Bằng cách đó VHCT có tác dụng rất quan trọng để xây dựng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đồng thời vượt qua được những thách thức và nguy cơ để phát triển trong bối cảnh hiện nay. Do vậy, việc làm cho VHCT thấm sâu vào nội dung, phương pháp xây dựng Đảng về mọi mặt mà thực chất của quá trình này chính là hình thành và phát triển VHCT của Đảng, nhân cách của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo.
Văn hoá chính trị với tác dụng và hiệu quả của nó còn góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả của quản lý nhà nước và hoạt động của hệ thống chính trị, thúc đẩy quá trình dân chủ hoá xã hội, phát triển cơ sở xã hội của chế độ chính trị. Nhờ nâng cao VHCT mà các cán bộ lãnh đạo phát huy được những tiềm năng sáng tạo, đấu tranh chống quan liêu tham nhũng để bảo vệ Đảng, nhà nước và chế độ khỏi sự tha hoá, biến dạng. VHCT một khi thâm nhập vào đời sống và trở thành phổ biến, trước hết ở sự gương mẫu của cán bộ lãnh đạo về sự trong sạch của thể chế, sau đó là trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng, khả năng làm chủ và tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước, sẽ thể hiện được vai trò mục tiêu và động lực của nó đối với sự phát triển ở tỉnh Khăm Muộn.
Thực tế ở tỉnh Khăm Muộn hiện nay: sau 23 năm thực hiện đổi mới ở Lào, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, V, VI, VII và các Nghị quyết khác, bằng mọi hình thức đã góp phần nâng cao tri thức chính trị của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chẳng hạn như đào tạo ngắn hạn và dài hạn, bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin cũng như đường lối, chủ trương của Đảng. Tuy nhiên so với yêu cầu của thời đại, cán bộ lãnh đạo của Tỉnh còn thiếu về lý luận, trình độ lý luận còn thấp.
Trong hoạt động chính trị thực tiễn có nhiều vấn đề bức xúc, một số bộ phận cán bộ ý thức tự học, phấn đấu giảm sút, ý thức tổ chức kỷ luật yếu, có tư tưởng phe phái, họ hàng, bạn bè cục bộ trong công việc. Những tri thức và kỹ năng lãnh đạo, quản lý của một số cán bộ ở cấp tỉnh đến huyện còn yếu, có tình trạng thiếu gương mẫu trong lối sống, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, giảm sút tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho. Do vậy, việc nghiên cứu, nhận thức về văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo của tỉnh, trên cơ sở đó nâng cao trình độ VHCT cho đội ngũ này sẽ góp phần trực tiếp tới sự ổn định và phát triển của tỉnh Khăm Muộn, góp phần đảm bảo cho sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tới thắng lợi với những mục tiêu mà Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã đặt ra. Với ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay” nhằm góp phần nhận thức lại thực trạng VHCT ở tỉnh Khăm Muộn, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của văn hoá chính trị trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Văn hoá Chính trị là một nội dung khá mới trong khoa học xã hội và nhân văn nói chung cũng như trong chính trị học nói riêng. Từ khi ra đời, nó đã thu hút được mối quan tâm của các học giả, các nhà hoạt động chính trị - xã hội ở nhiều nước trên thế giới và ngày càng trở thành một chủ đề được tranh luận sôi nổi. Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đề cập rất nhiều nội dung căn bản của VHCT. Hàng loạt các công trình nghiên cứu được công bố những năm gần đây thể hiện rõ điều này.
Tiêu biểu là các tác phẩm:
- “Phương pháp luận về vai trò của văn hoá trong phát triển”, GS Vũ Khiêu chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993.
- “Văn hoá và đổi mới”, Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
- “Vai trò của văn hoá trong hoạt động chính trị của Đảng ta hiện nay”, GS.TS Trần Văn Bính chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội, 1996.
- “Văn hoá Chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay”, PGS.TS Phạm Ngọc Quang chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
Xu thế chung của các nhà khoa học gần đây là nhấn mạnh vai trò tác động của văn hoá đối với sự phát triển của các quốc gia, các dân tộc, trước hết là tác động đến hoạt động chính trị của hệ thống chính trị. Có thể nói rằng: tác phẩm bàn sâu vào lĩnh vực văn hoá chính trị ở Việt Nam là tác phẩm: “Văn hoá chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” do PGS.TS Phạm Ngọc Quang chủ biên, 1995. Trong tác phẩm, tác giả đã đề cập khá toàn diện khái niệm, cấu trúc, chức năng, đặc điểm của VHCT, đồng thời khái quát thực trạng VHCT hiện nay ở Việt Nam và tác động của VHCT đối với vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay.
Ở CHDCND Lào, các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã bàn về nội dung liên quan đến VHCT ở Lào, đó là các tác phẩm của ông Cay Xỏn Phôm Vi Hản: “Nước Lào đang tiến bước trên con đường vẻ vang của thời đại”, Nxb Neo Lào Hắc Xạt, 1975; “Đất nước Lào, lịch sử và văn hoá” của GS. Lương Ninh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; “Tính dân tộc của văn hoá Lào” của Bua Ban Vola Khun, 1998 và tác phẩm “Sự hình thành của các dân tộc Lào” của Bun Mi Thệp Si Mương, 2006.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều nội dung khác nhau của văn hóa chính trị, Văn hóa chính trị Việt Nam, Văn hóa chính trị Lào. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu về văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo Lào nói chung và văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn nói riêng. Vì vậy, trên cơ sở tiếp nhận, kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các tác giả Việt Nam và Lào, tác giả đi sâu vào nghiên cứu “Văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Luận văn nhận diện những đặc trưng, thực trạng VHCT của cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn, đồng thời đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao VHCT của đội ngũ cán bộ này.
* Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ tiến hành thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá lý luận chung về VHCT.
- Phân tích thực trạng VHCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở tỉnh Khăm Muộn và yêu cầu đặt ra trong điều kiện hiện nay.
- Xác định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng VHCT của người cán bộ lãnh đạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn chỉ tập trung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị trung, cao cấp trong các tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở tỉnh Khăm Muộn.
- Giới hạn thời gian nghiên cứu được xác định theo tiến trình đổi mới đất nước (từ 1986 đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào.
Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp logic - lịch sử, phương pháp thống kê và so sánh, phân tích và tổng hợp.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần xác lập những tiêu chí khoa học trong cấu trúc văn hoá chính trị của người cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu để nâng cao VHCT của chủ thể chính trị này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập trong các chuyên ngành khoa học như: Chính trị học, Văn hoá học, Nhà nước pháp luật ở Việt Nam và Lào.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HOÁ CHÍNH TRỊ
1.1. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ CHÍNH TRỊ
Để tiếp cận được khái niệm VHCT một cách cơ bản, bản chất nhất, chúng ta cần phải hiểu các khái niệm văn hoá, chính trị.
Khái niệm văn hoá
Thuật ngữ “văn hoá” xuất hiện từ lâu trong ngôn ngữ của nhân loại, xuất phát từ chữ Latinh “Cultus”, nghĩa gốc là “trồng trọt”, được dùng theo hai nghĩa “Cultus agri” là “trồng trọt ngoài đồng” và “Cultus animi” là “trồng trọt tinh thần”. Như vậy, nguồn gốc thuật ngữ văn hoá có liên quan đến lao động, hoạt động tích cực cải tạo con người, tức là sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn con người, “trồng người”.
Dựa vào sự phân tích quá trình hoạt động thực tiễn của xã hội loài người trong lịch sử, A.I. Ácnônđốp cho rằng: Văn hoá là hiện tượng phức tạp và đa diện. Nó bao gồm cả hoạt động sáng tạo, tức là toàn bộ quá trình sản xuất ra tư tưởng và vật chất hoá các tư tưởng đó; cả những tính cách của con người như một chủ thể hoạt động; và cả bản thân nội dung những giá trị vật chất và tinh thần được tạo ra trong quá trình hoạt động ấy. Một định nghĩa thoả đáng về văn hoá cần phải bao hàm tất cả các mặt trên cơ sở đó, A.I. Ácnônđốp đưa ra một định nghĩa khái quát sau đây.
Văn hoá là hoạt động sáng tạo tích cực của con người (cá thể, nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung) thực hiện trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và tinh thần, nhằm nắm bắt và khai thác thế giới, quá trình này sẽ sản xuất, bảo quản, phân phối, trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần mang ý nghĩa xã hội. Đồng thời nó là một tổng hợp chính những giá trị đã vật thể hoá hoạt động sáng tạo đó của người [8, tr.33] với cái nhìn bao quát các nền văn hoá, các giá trị văn hoá trên thế giới. Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor quan niệm: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế hệ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [9, tr.32].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, văn hoá gắn liền với sức sáng tạo và năng lực của con người và sức sáng tạo đó bao giờ cũng bắt đầu từ lao động. Theo Mác, căn cứ vào mức độ tự nhiên được con người khai thác, cải tạo thì có thể xét được trình độ văn hoá chung của con người.
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, văn hoá cũng được hiểu theo nhiều góc độ nhau: văn hoá là toàn bộ hiểu biết của con người tích luỹ được trong quá trình hoạt động thực tiễn - lịch sử, được đúc kết lại thành các giá trị và chuẩn mực xã hội, gọi chung là hệ giá trị xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hoá và hệ thống ứng xử văn hoá của cộng đồng người. Hệ giá trị xã hội là một thành tố cơ bản làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của những con người sống trong cộng đồng xã hội.
Văn hoá là một trong bốn lĩnh vực hoạt động sống của xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Như thế, văn hoá là một bộ phận của đời sống con người - lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Văn hoá là một hệ thống giá trị xã hội, biểu hiện và phát triển những năng lực bản chất của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên - xã hội và làm chủ bản thân. Những năng lực ấy được thể hiện trong hoạt động sáng tạo của con người và trong những kết quả của hoạt động đó, nhằm thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của cá nhân và xã hội theo hướng Chân - Thiện - Mỹ.
Với nghĩa rộng của thuật ngữ văn hoá, trong thời gian qua nhiều tác giả đã nêu lên những quan niệm và có những cách diễn đạt riêng, song tựu trung lại có thể khái quát thành 4 nội dung cơ bản như sau:
+ Văn hoá theo nghĩa rộng bao gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần.
+ Văn hoá hiểu theo nội dung bao gồm cả khoa học, kỹ thuật, giáo dục, văn hoá nghệ thuật.
+ Văn hoá đặt trong phạm vi nếp sống, lối sống, đạo đức, xã hội, văn hoá nghệ thuật.
+ Văn hoá xét từ vai trò của nó vừa là kết quả, vừa là nguyên nhân của sự phát triển xã hội, nó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước.
Ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, văn hoá được nghiên cứu từ luồng chuyển dịch cư dân Malay O - Pôlinêsian qua đất Lào. Nhưng những dấu tích còn lại đều cho biết từ khoảng thế kỷ VIII về trước. Nền tảng văn hoá ở Lào là nền tảng văn hoá của cư dân Môn - Khơme? Trên một nền tảng văn hoá Môn - Khơme, người Lào - Thái đã đem tới đây kỹ thuật trồng lúa nước và một thiết chế xã hội hết sức năng động, thiết chế bản - mường - liên mường, thêm vào đó là nét bao dung, tính chất hoà đồng của Phật giáo. Khi xem xét nền văn hoá của các tộc người Lào, các nhà nghiên cứu thường đặc biệt lưu ý đến ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo trong quá trình hình thành và phát triển văn hoá của nước này. “ Phật giáo giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân Lào”. Ngôi chùa có một vị trí rất quan trọng trong đời sống của cộng đồng bản (làng). Chùa là trường học, là bệnh viện, là nơi tu thân tích cực, là nơi hội hè đình đám, là nơi bảo tồn và phát triển văn hoá của cộng đồng. Các nhà nghiên cứu Lào nhấn mạnh: “Văn hoá là tổng hoà của sự kết nối giao tiếp và trí tuệ mà được xã hội đó kế thừa” [43, tr.3].
Trong quá trình phát triển, văn hoá Lào đã tiếp biến và giao lưu với các nền văn hoá khác. Thông qua các quốc gia của người Môn - Khơme, vương quốc Lạn - xạng của Lào đã tiếp nhận những yếu tố văn hoá Ấn Độ và ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa do chính dân cư Lào - Thái mang lại để xây dựng nên một nền văn hoá dân tộc độc đáo và đa dạng.
Nhờ so sánh với văn hoá Việt Nam và các nước trong khu vực, các nhà nghiên cứu của Lào đã phát hiện ra cơ tầng Đông Nam Á trong văn hoá Lào và quá trình tích hợp văn hoá tộc người nhất là cư dân Môn - Khơ me và Lào Thái, những nhân tố cơ bản để hình thành nhà nước Lạn - xạng trong sự tiếp tục với văn hoá Ấn Độ tạo thành một nền văn hoá quốc gia dân tộc có cấu trúc gồm hai dòng: văn hoá bác học chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ trên biểu tầng qua người Môn, người Khơ me và văn hoá dân gian là dòng đã bảo lưu được những yếu tố bản địa dưới cơ tầng và mối quan hệ tương hỗ giữa chúng để tạo nên sắc thái riêng biệt của nền văn hoá Lào khác với người đồng tộc của họ ở Thái Lan.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã vạch ra đường lối văn hoá mới, nhằm xây dựng văn hoá có bản sắc dân tộc, nhân dân và tiến bộ “lịch sử bản sắc văn hoá Lào đã tồn tại và phát triển trong tiến trình gìn giữ và cải thiện đất nước qua nhiều thế hệ…” Tình đoàn kết của nhân dân các bộ tộc Lào đã trở thành văn hoá của người Lào, là chân lý không thể tách rời được.
Trên cơ sở tổng hợp những quan niệm nêu trên, có thể hiểu về văn hoá như sau: Văn hoá là toàn bộ những thành quả hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ và hiện tại, biểu hiện thành hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Hệ thống giá trị có khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của những con người sống trong cộng đồng xã hội ấy.
Các lĩnh vực đặc thù của đời sống hay của hoạt động con người cũng được thể hiện bằng các khái niệm văn hoá khác nhau, chẳng hạn, văn hoá lao động, văn hoá giao tiếp, văn hoá pháp quyền, văn hoá dân chủ… VHCT cũng được đề cập từ phương diện này.
Khái niệm chính trị
Chính trị xuất hiện từ khi xã hội phân chia thành giai cấp và hình thành nhà nước. Thuật ngữ chính trị xuất phát từ tiếng Hy Lạp “Politica” có nghĩa là những công việc liên quan tới nhà nước, là nghệ thuật cai trị nhà nước, là phương pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu của quốc gia.
Trong lịch sử phát triển của xã hội, chính trị đã từng là lĩnh vực hoạt động, công cụ của những nhóm xã hội thống trị để buộc những người bị trị phải phục tùng và thực hiện lợi ích của họ. Chính trị được coi là đặc quyền của tầng lớp “bên trên”, thậm chí là của một “thiên tử”. Sau đó, do sự phát triển của tư tưởng dân chủ, chính trị trở thành công việc của đông đảo quần chúng. Mọi công dân đều có quyền tham gia vào chính trị, tham gia vào công việc của nhà nước và công việc quản lý xã hội. Mức độ và trình độ tham gia còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và công dân của từng nước.
Từ thời cổ đại cho đến nay, nhiều nhà tư tưởng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù chính trị. Platon, nhà triết học cổ đại Hy Lạp, đã xem chính trị là “nghệ thuật cung đình”, liên kết trực tiếp các chuẩn mực của người anh hùng và sự thông minh, sự liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần ái hữu. Cũng theo ông, chính trị là nghệ thuật cai trị, cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng thuyết phục mới đích thị là chính trị. Theo Max Weber, nhà xã hội học Đức đầu thế kỷ XX, chính trị là khát vọng tham gia vào quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn người trong một quốc gia. Chính trị là những mong muốn và những tương tác khách quan của cộng đồng người đối với quyền lực, không phải là hoạt động đeo đuổi quyền lực. Xuất phát từ quan điểm này, một số học giả khác hiểu chính trị là sự khôn khéo, khả năng đạt được sự phân chia chức năng mà vẫn đảm bảo duy trì sự tác động qua lại của chúng. Tác giả của cuốn: “Chính trị và Kinh tế Nhật Bản” xem chính trị là hoạt động tìm kiếm những khả năng áp đặt quyền lực chính trị. Các quan niệm trên, tuy có chứa một số nhân tố hợp lý nhất định nhưng chưa nêu được nội dung cơ bản nhất của phạm trù chính trị. Chính trị là một thực thể tồn tại trong đời sống với những cấp độ khác nhau (cá nhân, cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại) liên quan đến công việc nhà nước.
Quan niệm đúng đắn và khoa học về chính trị là quan niệm của C.Mác và V.I.Lênin. Theo C.Mác, chính trị bao giờ cũng gắn liền với giai cấp, giai cấp nào muốn nắm được chính quyền, xoá bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, trước hết phải giành lấy chính quyền:
Giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị, ngay cả khi quyền thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung, như trong trường hợp của giai cấp vô sản, thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu [7, tr.48].
C.Mác đã viết rằng: Tuyệt đối từ bỏ chính trị là không thể được; tất cả các tờ báo chủ trương từ bỏ chính trị cũng đều làm chính trị. Vấn đề chính là làm chính trị như thế nào và làm loại chính trị gì. Thực tiễn trong cuộc sống hiện đại, sự áp bức chính trị của chính phủ hiện tồn đối với công nhân nhằm mục đích chính trị cũng như xã hội đều buộc giáo dục công nhân dù muốn hay không cũng phải làm chính trị. Cổ vũ họ bỏ chính trị, có nghĩa là đẩy họ vào vòng tay của chính trị tư sản.
Như vậy, bản chất giai cấp của hoạt động chính trị đã được C.Mác xác định rõ ràng: chính trị là hoạt động thực hiện lợi ích giai cấp. Nhưng lợi ích giai cấp khác nhau thì mục tiêu chính trị cũng khác nhau. Theo V.I. Lênin: “Chính trị có tính logic khách quan của nó, không phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của Đảng này hay Đảng khác” [16, tr.246]. Đây là một quan niệm khẳng định chính trị không phải hình thành theo ý muốn của mỗi người, mỗi Đảng, mà là gắn với điều kiện lịch sử cụ thể nhất định.
Theo V.I.Lênin: phạm trù chính trị được biểu hiện ở các phương diện sau:
Thứ nhất, chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp.
Thứ hai, cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền, quyền lực nhà nước, là sự tham gia vào công việc nhà nước, định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của nhà nước.
Thứ ba, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà nước về kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế.
Thứ tư, văn hoá là cơ sở để xây dựng nền chính trị tiến bộ.
Thứ năm, chính trị là lĩnh vực phức tạp nhất, nhạy cảm nhất, liên quan đến vận mệnh hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.
Từ đó, có thể rút ra kết luận: chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các quốc gia trong vấn đề giành giữ, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra. Đây là quan niệm tiếp cận chính trị từ hai phương diện cơ bản: chính trị với tư cách là quan hệ đặc biệt của các chủ thể chính trị liên quan tới vấn đề quyền lực chính trị và chính trị với tư cách là hoạt động xã hội đặc thù của các chủ thể chính trị có liên quan tới vấn đề nhà nước.
Cùng với sự phát triển của hiện thực chính trị, những kinh nghiệm chính trị được tích luỹ ngày càng phong phú và sâu rộng. Người ta thấy rằng, một trong những động lực quan trọng tạo cho xã hội phát triển chính là văn hoá. Văn hoá là động lực của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển hiện thực chính trị. Nhu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động chính trị đã khái quát hoá kinh nghiệm chính trị thành lý luận chính trị, từ đó tạo điều kiện cho sự tìm tòi tiếp cận đúng về quan niệm văn hoá chính trị.
Quan hệ văn hoá với chính trị
Văn hoá và chính trị là hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu của xã hội loài người và có quan hệ hữu cơ với nhau, từ đó nảy sinh vấn đề chính trị trong văn hoá, chính trị với văn hoá và văn hoá trong chính trị.
Thứ nhất, vấn đề chính trị trong văn hoá: văn hoá và tư tưởng là cặp phạm trù sinh đôi, mà chính trị là mặt trực tiếp của hệ tư tưởng. Như vậy, chính trị là bộ phận đặc thù trong văn hoá, phản ánh một lĩnh vực hoạt động phức tạp của xã hội thông qua sự in đậm dấu ấn của mình vào văn hoá theo hướng tích cực hoặc tiêu cực, tuỳ thuộc vào sự tiến bộ, cách mạng hoặc lạc hậu, phản động của chính trị. Sự biểu hiện nổi bật của chính trị trong văn hoá chính là sự tác động của chính trị vào cơ cấu văn hoá của cá nhân hay xã hội. Nó qui định tính giai cấp của các hoạt động và các hiện tượng văn hoá. Như vậy, văn hoá không thể không mang dấu ấn chính trị đặc biệt là khi xã hội còn phân chia giai cấp, còn đấu tranh dân tộc gắn liền với đấu tranh giai cấp. Xác định rõ đặc trưng này, trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng tư tưởng và hoạt động cách mạng của mình đã khơi dậy và tạo được sự phát triển mạnh mẽ trong văn hoá Việt Nam, làm thay đổi về chất và nền tảng văn hoá Việt Nam thông qua việc xác lập các quan hệ giai cấp trong xã hội và xây dựng lại ý thức chính trị trong văn hoá theo hệ tư tưởng khoa học và cách mạng – đó là hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin. Có thể nói, xét trong mối quan hệ với văn hoá (chính trị trong văn hoá, chính trị với văn hoá) thì chính trị có vai trò kim chỉ nam, mà kim của nó luôn chỉ về sự sáng tạo và nhân văn. Cũng như ở Việt Nam, phương hướng phấn đấu, xây dựng nền văn hoá ở Lào phải hướng trực tiếp về nhân dân, là xây dựng nền văn hoá của dân, do dân, vì dân. Chính trị trong văn hoá chính là ở khía cạnh này. Chỉ khi giai cấp và đấu tranh giai cấp mất đi thì đấu tranh dân tộc mới mất đi, và khi ấy chính trị cũng sẽ không còn, sẽ chỉ còn sự khác biệt về dân tộc trong sự đa dạng và phong phú về văn hoá của nhân loại.
Thứ hai, vấn đề văn hoá trong chính trị, văn hoá với chính trị: Mọi quan điểm và đường lối chính trị, công nghệ chính trị và nhân cách chính trị đều là sự thể hiện trình độ văn hoá của một giai cấp, một tổ chức, một cá nhân trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong sự phát triển của mình, chính trị chỉ được xem là văn hoá khi gắn với trình độ, năng lực sáng tạo tích cực của con người trong chính trị, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ xã hội. Cùng với sự phát triển xã hội, văn hoá trong địa hạt chính trị đã được định hình như một vấn đề của nhận thức và thực tiễn khi nhà nước bước vào giai đoạn hiện đại của nó. Ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, ngay từ những năm đầu hoạt động cách mạng và cho đến ngày nay, nhiều giá trị văn hoá của nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã và luôn là bó đuốc soi đường, làm sáng tỏ nhận thức cách mạng Lào. Những con người cách mạng với lý tưởng xã hội giải phóng áp bức, bóc lột đã hành động và ứng xử hoàn toàn khác với nền văn hoá phong kiến và tư sản.
Văn hoá tạo khả năng cho các dân tộc bị áp bức xây dựng tình đoàn kết, vùng dậy với sức mạnh, khả năng sáng tạo và lòng dũng cảm để tiến hành sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vấn đề đặt ra là phải làm t