Trong thời gian qua, vấn đề đạo đức xã hội ở nước ta đang diễn ra rất phức tạp, đạo đức xã hội có phần bị xuống cấp, điều đáng lo ngại hơn cả là "có một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước" [9, 21]. Hiện tượng thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong thi cử, dùng tiền để "mua điểm", "mua bằng cấp", hiện tượng đánh thầy chửi bạn. có nguy cơ trở thành một tệ nạn. Không những thế, những tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, ma túy. cũng đang có xu hướng du nhập vào nhà trường gây ảnh hưởng lớn đối với học sinh.
Tại sao trong một bộ phận học sinh hiện nay lại có sự sa sút về mặt phẩm chất đạo đức? Hiện tượng đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng phải thấy rằng nguyên nhân chủ yếu nhất là do trong thời gian qua chúng ta ít quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức cho những đối tượng này, gia đình và xã hội gần như "gửi gắm", thậm chí "khoán trắng" công việc giáo dục đạo đức con em mình cho nhà trường. Mặt khác, giáo dục trong nhà trường lại có xu hướng coi nhẹ, thậm chí buông lỏng giáo dục đạo đức, chạy theo giáo dục văn hóa đơn thuần vì mục đích thi cử.
Để khắc phục tình trạng xuống cấp, suy thoái về đạo đức trong một bộ phận thanh niên học sinh, để đáp ứng những nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng con người cho thế kỷ XXI mà Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã vạch ra, phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên, mà đặc biệt là thanh niên học sinh trong các trường phổ thông trung học.
Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho đối tượng học sinh phổ thông trung học, đó là vấn đề bức xúc hiện nay, đề tài luận văn này mong muốn góp một phần nhỏ giải quyết vấn đề bức xúc đó.
74 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1112 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Vấn đề nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, vấn đề đạo đức xã hội ở nước ta đang diễn ra rất phức tạp, đạo đức xã hội có phần bị xuống cấp, điều đáng lo ngại hơn cả là "có một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước" [9, 21]. Hiện tượng thiếu trung thực trong học tập, gian lận trong thi cử, dùng tiền để "mua điểm", "mua bằng cấp", hiện tượng đánh thầy chửi bạn... có nguy cơ trở thành một tệ nạn. Không những thế, những tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, ma túy... cũng đang có xu hướng du nhập vào nhà trường gây ảnh hưởng lớn đối với học sinh.
Tại sao trong một bộ phận học sinh hiện nay lại có sự sa sút về mặt phẩm chất đạo đức? Hiện tượng đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng phải thấy rằng nguyên nhân chủ yếu nhất là do trong thời gian qua chúng ta ít quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức cho những đối tượng này, gia đình và xã hội gần như "gửi gắm", thậm chí "khoán trắng" công việc giáo dục đạo đức con em mình cho nhà trường. Mặt khác, giáo dục trong nhà trường lại có xu hướng coi nhẹ, thậm chí buông lỏng giáo dục đạo đức, chạy theo giáo dục văn hóa đơn thuần vì mục đích thi cử.
Để khắc phục tình trạng xuống cấp, suy thoái về đạo đức trong một bộ phận thanh niên học sinh, để đáp ứng những nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng con người cho thế kỷ XXI mà Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã vạch ra, phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên, mà đặc biệt là thanh niên học sinh trong các trường phổ thông trung học.
Tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho đối tượng học sinh phổ thông trung học, đó là vấn đề bức xúc hiện nay, đề tài luận văn này mong muốn góp một phần nhỏ giải quyết vấn đề bức xúc đó.
2. Tình hình nghiên cứu
- Xung quanh vấn đề đạo đức học sinh ở các trường phổ thông trung học đã có một số công trình nghiên cứu chuyên khảo và sách báo v.v... nhưng chưa có luận văn thạc sĩ nào đề cập đến vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ vai trò nhân tố chủ quan trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học, và thực trạng của sự phát huy vai trò của nhân tố này trong những năm qua, luận văn chỉ ra tính cấp thiết và đề xuất những giải pháp chủ yếu, nhằm nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học hiện nay.
Nhiệm vụ:
+ Phân tích mối quan hệ điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học.
+ Làm rõ tầm quan trọng của việc cao nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học hiện nay.
+ Đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò nhân tố chủ quan, trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đặc biệt là mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, đề tài được thực hiện theo phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgic...
- Kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: khảo sát, điều tra, tọa đàm, phỏng vấn, so sánh, tiếp cận, thống kê v.v...
5. ý nghĩa của đề tài
- Làm tài liệu nghiên cứu cho trường phổ thông trung học.
- Góp phần nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học tỉnh Kiên Giang.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 5 tiết.
Chương 1
Tầm QUAN Trọng Của Việc NÂNG CAO NHÂN Tố Chủ QUAN TRONG Giáo Dục Đạo Đức CHO Học SINH Phổ THÔNG TRUNG Học Hiện NAY
1.1. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học
1.1.1. Đạo đức và vai trò giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội sớm xuất hiện trong lịch sử nhân loại. Con người là một sinh vật có tính xã hội, ngay từ thuở hoang sơ nhất của mình, con người đã biết thiết lập các mối quan hệ với nhau, mặc dù những quan hệ đó lúc đầu còn mang tính "quần cư đơn thuần". Trong quá trình phát triển, con người từng bước ý thức được sự cần thiết phải hợp tác, tương trợ nhau trong cuộc sống, từ đó, dần dần làm nảy sinh khát vọng tự nguyện, khát vọng về sự công bằng, nguyên tắc về sự bình đẳng,... giữa các thành viên trong xã hội.
Cùng với sự tiến bộ của sản xuất, ngay trong xã hội nguyên thủy, mối quan hệ giữa người và người cũng trở nên phức tạp, đa dạng, phong phú hơn. Chính trong quá trình tồn tại và phát triển đời sống cộng đồng đó đã làm nảy sinh, xuất hiện những "chuẩn mực" đạo đức biểu hiện ở những hành vi giao tiếp, ứng xử giữa các thành viên trong xã hội. Những chuẩn mực đó dần dần được nội tâm hóa, trở thành nhu cầu bên trong, thành khát vọng, thói quen, thành tình cảm đạo đức.
Như vậy, đạo đức không phải được nảy sinh từ bên ngoài xã hội, sự xuất hiện của đạo đức là do nhu cầu khách quan của sự phát triển nhận thức, của đời sống xã hội, mà trước hết do nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất, trong đời sống cộng đồng xã hội.
Do đó, đạo đức theo quan niệm mác xít là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm một hệ thống các qui tắc, các chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội để bảo vệ lợi ích của cá nhân và của cộng đồng.
Là một hình thái ý thức xã hội, nên cũng như các hình thái ý xã hội khác, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội. Sự xuất hiện của đạo đức đáp ứng đòi hỏi khách quan của cuộc sống xã hội, nó phản ánh đời sống xã hội, mà trước hết là chế độ kinh tế - xã hội. Khi nền kinh tế - xã hội có sự biến đổi, đòi hỏi đạo đức xã hội cũng phải thay đổi theo.
Trong lịch sử nhân loại, cùng với sự phát triển của sản xuất, của tiến bộ xã hội những quy tắc, chuẩn mực, phạm trù đạo đức... theo đó tăng lên, phản ánh đời sống xã hội ngày càng phong phú, đa dạng hơn, trở thành một trong những phương thức điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, điều chỉnh hành vi của con người sao cho phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực xã hội.
Phản ánh tồn tại xã hội, do đó đạo đức mang tính lịch sử, quan niệm về một nền đạo đức vĩnh cửu, đặt trên mọi lịch sử và trên những sự khác biệt về dân tộc, một thứ đạo đức bất chấp cả thời gian mà mọi sự biến thiên của thực tế là siêu hình, giáo điều và duy tâm. Quan niệm đó là hoàn toàn xa lạ với quan niệm mác xít, khẳng định tính lịch sử của đạo đức trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ăngghen đã chỉ ra rằng: "Chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ" [2, 63].
Trong các xã hội có sự phân chia thành giai cấp, đạo đức luôn mang tính giai cấp. Trong xã hội nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất còn kém phát triển, con người phải nương tựa vào nhau và sống nhờ vào những ân huệ của giới tự nhiên, thì sự thông cảm và tinh thần tương trợ cũng như công bằng và sự bình đẳng được coi là công cụ tự bảo vệ, là điều kiện để tồn tại và là chuẩn mực đạo đức của xã hội đó.
Sự xuất hiện xã hội có giai cấp, dẫn tới sự phá vỡ ý thức đạo đức thống nhất vốn có của xã hội nguyên thủy và hình thành một nền đạo đức khác, mở đầu cho lịch sử đạo đức mang tính giai cấp trong xã hội có giai cấp. Đạo đức luôn luôn là đạo đức của giai cấp, từ xã hội cổ đại cho đến xã hội hiện đại, từ giai cấp chủ nô đến giai cấp phong kiến, từ giai cấp tư sản đến giai cấp vô sản, mỗi giai cấp đều có nền đạo đức của nó: đạo đức của giai cấp chủ nô, đạo đức giai cấp phong kiến, đạo đức của giai cấp tư sản, đạo đức của giai cấp vô sản.
Trong các nền đạo đức đã xuất hiện trong lịch sử, đạo đức mới, tức đạo đức của giai cấp vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là nền đạo đức có giá trị phổ biến và nhân đạo nhất.
Thừa nhận tính lịch sử, tính giai cấp của đạo đức, triết học Mác - Lênin không hề phủ nhận những giá trị phổ biến toàn nhân loại của đạo đức. Những giá trị đạo đức như lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, tính trung thực, sự công bằng, tôn trọng lẽ phải... thì xã hội nào, thời kỳ nào cũng cần, cũng có. Tất nhiên, do những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, do lý tưởng đạo đức khác nhau mà đôi khi người ta có cách hiểu không hoàn toàn giống nhau, về các giá trị đạo đức có ý nghĩa phổ biến đó.
Thừa nhận có thứ đạo đức của con người đích thực, tức là thứ đạo đức thoát khỏi sự tha hóa của con người, đạt tới sự tự do và giải phóng con người, thoát khỏi mọi sự ràng buộc giai cấp, nhưng triết học mác xít cũng đã khẳng định rằng, để có được một nền đạo đức thật sự có tính người, mang tính nhân loại phổ biến, điều trước hết là phải xóa bỏ được sự đối lập giai cấp.
Nghiên cứu các nền đạo đức đã tồn tại trong lịch sử nhân loại, Ăngghen đã chỉ ra rằng nền đạo đức có nhiều nhân tố hứa hẹn lâu dài nhất, chắc chắn là nền đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ chế độ hiện đại, bảo vệ tương lai, tức nền đạo đức vô sản.
Đạo đức vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là một nền đạo đức thật sự có tính người, mang tính nhân loại phổ biến. Nền đạo đức ấy kế thừa, có chọn lọc, có phê phán và phát triển tất cả những gì tốt đẹp nhất được nhân loại tạo ra trong lịch sử, đó là một nền đạo đức của tương lai, một nền đạo đức mang tính nhân văn cao cả.
Đạo đức vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa biểu hiện sự sáng tạo mang tính quần chúng rộng rãi. Các giá trị đạo đức này mang ý nghĩa cao cả, vì nó là những sản phẩm sáng tạo của con người và vì con người. Những giá trị ấy nói lên bản chất sáng tạo của trí tuệ, của ý thức danh dự, của lòng dũng cảm và những phẩm chất cao quý của con người. Nền đạo đức ấy vừa là sản phẩm của nền sản xuất xã hội đầy sáng tạo và nhân văn, vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là đạo đức mới, là nền đạo đức mà chúng ta hiện nay đang hướng tới và xây dựng.
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức một mặt được hình thành một cách tự phát, từ chính cuộc sống hàng ngày của con người để đáp ứng đòi hỏi khách quan của sinh hoạt cộng đồng. Mặt khác, đạo đức phải là kết quả của sự giáo dục và tự giáo dục, tự rèn luyện của mỗi cá nhân theo các chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội.
Giáo dục theo nghĩa chung nhất, đó là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
Giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng là một quá trình bao gồm hai mặt, một mặt đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục, mặt khác thông qua sự tác động này làm cho đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự nâng mình lên qua giáo dục.
Đạo đức, nhất là đạo đức của lứa tuổi học sinh phổ thông trung học được hình thành chủ yếu bằng con đường giáo dục. Giáo dục đạo đức góp phần chuyển các quan niệm đạo đức từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng cao trình độ nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi người, từ trình độ nhận thức thông thường lên trình độ nhận thức khoa học. Nhận thức thông thường hình thành do ảnh hưởng trực tiếp của những điều kiện sinh hoạt hàng ngày mang lại, nó phản ánh những giá trị đạo đức gần gũi với cuộc sống đời thường, còn nhận thức khoa học phản ánh các giá trị đạo đức một cách gián tiếp, khái quát, cả những giá trị đạo đức hiện đại, cả những phẩm giá của con người được kết tinh trong truyền thống lâu dài của dân tộc.
Giáo dục đạo đức góp phần to lớn, tích cực trong việc truyền lại cho thế hệ đang trưởng thành những giá trị đạo đức, mà thế hệ trước đã tạo ra, những giá trị đạo đức được kết tinh trong hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc. Trên cơ sở đó giúp họ nhận ra chân giá trị của các giá trị đạo đức, nhận thấy giá trị và ý thức cuộc sống mang tính nhân bản, nhân ái, nhân văn sâu sắc, góp phần to lớn trong việc nhân đạo hóa con người và đời sống xã hội của con người, trong việc hình thành, củng cố những giá trị nhân cách tốt đẹp.
Chẳng hạn, qua giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản, những giá trị đạo đức tốt đẹp như: lòng tự hào dân tộc, ý thức và hành vi sẵn sàng bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia, yêu hòa bình, tôn trọng các dân tộc khác... được củng cố, được nâng lên làm cho thế hệ trẻ thấy được những giá trị lớn lao, ý nghĩa đích thực của cuộc sống hòa bình, tự do, độc lập. Những giá trị ấy trở thành tình cảm, động lực thôi thúc họ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia vươn lên trong sự nghiệp xây dựng đời sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc.
Giáo dục đạo đức không chỉ có tác dụng nâng cao các giá trị đạo đức, tạo ra những giá trị đạo đức mới, mà còn góp phần tích cực vào việc khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách, những thói hư tật xấu, chống lại những hiện tượng vô đạo đức đang đầu độc bầu không khí xã hội, tạo ra cơ chế phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản giá trị văn hóa...
Tóm lại, giáo dục đạo đức có vai trò rất to lớn trong việc hình thành ý thức, tình cảm cũng như các hành vi đạo đức của con người, đặc biệt của lứa tuổi học sinh phổ thông trung học.
Nhận thức được vai trò của đạo đức mới, cũng như tác dụng to lớn của công tác giáo dục đạo đức trong việc hình thành đạo đức mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm quan tâm đến công tác này, nhất là giáo dục đạo đức trong các trường học.
Hiện nay, trước nhiều biến động phức tạp của đạo đức trong xã hội, trước sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận thanh niên học sinh trong các trường học, trong chiến lược chăm lo phát triển nguồn lực con người của Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định: "Cùng với đổi mới nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại, phải tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước" [7, 29].
1.1.2. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học
Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan: Các khái niệm "điều kiện khách quan" và "nhân tố chủ quan" được hình thành và phát triển trong quá trình nghiên cứu hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, để làm sáng tỏ nội dung của các khái niệm trên, trước hết cần phải xác định rõ nội dung của các khái niệm có liên quan trực tiếp tới hoạt động của con người. Đó là khái niệm "chủ thể" và "khách thể".
Trong hoạt động thực tiễn, con người đối lập với thế giới vật chất khách quan như là đối tượng bên ngoài mà họ cần tác động và cải tạo, nhằm thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích của mình. ở đó, con người là chủ thể hoạt động. Những đối tượng chịu sự tác động của con người chính là khách thể bị cải tạo. Con người với tư cách là một chủ thể được hiểu có thể hoặc là toàn thể nhân dân, hoặc là một giai cấp, hoặc một nhóm người, hoặc là một cá nhân nào đó. Còn khách thể là toàn bộ hiện thực khách quan tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của chủ thể, được chủ thể sử dụng với tư cách là đối tượng hoạt động thực tiễn của mình.
Các khái niệm: chủ quan và chủ thể, khách quan và khách thể quan hệ gắn bó chặt chẽ, nhưng không đồng nhất với nhau. Nhân tố chủ quan, về thực chất, là những phẩm chất, những thuộc tính về ý thức, ý chí của chính chủ thể hành động. Về mặt cơ cấu, nhân tố chủ quan bao gồm: tri thức, ý chí, tình cảm và năng lực tổ chức hành động của chủ thể, chúng chỉ phối hợp và biểu hiện ra trong hoạt động của chủ thể. Những phẩm chất này bao giờ cũng có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Nếu như nhân tố chủ quan phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể, thì điều kiện khách quan lại lệ thuộc vào khách thể, vào những mối liên hệ của khách thể. Đó là tất cả những gì tạo nên một hoàn cảnh hiện thực, quy định và tác động vào mọi hoạt động của chủ thể, tồn tại không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể hoạt động. Điều kiện khách quan là một tổng thể các yếu tố, các bộ phận có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó hệ thống các thuộc tính, các mối liên hệ bản chất, quy luật chi phối sự tồn tại và phát triển của khách thể là bộ phận quan trọng nhất, quyết định nhất.
Luận văn này quan tâm đến điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học.
Điều kiện khách quan ở đây, là nói tới bản thân người được giáo dục đạo đức và những điều kiện kinh tế xã hội khác ảnh hưởng tới đạo đức của họ. Người được giáo dục đạo đức đề cập trong luận văn là học sinh phổ thông trung học.
Đa số học sinh phổ thông trung học là ở lứa tuổi thanh niên, lứa tuổi này hoạt động tư duy ghi nhớ, chú ý, hứng thú, khát vọng, ý chí, tình cảm và xúc cảm đều biến đổi so với thiếu niên. Họ có sức khỏe dồi dào, bộ máy thần kinh và hoạt động thần kinh bậc cao trung đã hoàn thiện, nên họ có phản xạ chính xác, nhanh nhẹn, dễ thích ứng hơn với các tác động khác nhau của hiện thực xung quanh, hăng hái trong hoạt động, ham hiểu biết, thích đổi mới, nhu cầu về tình bạn, tình yêu phát triển mạnh, những đặc điểm này tác động mạnh tới sự hình thành tư tưởng chính trị ở họ và khi họ đã xác định được niềm tin, lý tưởng, họ có thể xả thân vì tưởng và phấn đấu với niềm lạc quan, với sức sống mạnh mẽ để đạt được niềm tin và lý tưởng đó.
Tư duy của họ so với thiếu niên đã có hệ thống hơn, có tính phê phán hơn, do vậy khi tiếp thu tri thức chính trị, nhất là tri thức lý luận, họ thường đòi phải chứng minh, luận giải chặt chẽ. Vì có sự hiểu biết, họ có khả năng tranh luận, khả năng tìm tòi đọc thêm sách báo, các nguồn thông tin khác để bổ sung cho tri thức của mình. Sự phát triển hoàn chỉnh về tâm sinh lý cũng cho phép họ có khả năng tự tìm hiểu, tự nghiên cứu những vấn đề chính trị xã hội. Học sinh ở lứa tuổi thanh niên thích sinh hoạt cộng đồng, thích giao lưu. Vì vậy, họ tự nguyện và tích cực tham gia các hoạt động đoàn thể, hoạt động lớp, các lễ hội, hoạt động chính trị xã hội, và chính qua các hoạt động đó, họ được rèn luyện năng lực thực tiễn. ở họ, không có tính bảo thủ, trì trệ như người lớn tuổi. Vì vậy, họ dễ thích ứng với đường lối đổi mới, dễ thích ứng với các chủ trương, chính sách mới. Vì họ quan tâm đến tương lai, luôn hướng về tương lai nên họ cũng rất quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, của thời cuộc. Điều đó giúp họ xác định phương hướng tiến thân lập nghiệp.
Khả năng cảm thụ xúc cảm, đồng cảm của họ phát triển cao, do vậy họ cởi mở để hòa nhập, thích những hình thức hoạt động văn hóa nghệ thuật, dễ cảm thông với người khác. ở họ, kinh tế chưa độc lập, còn phụ thuộc gia đình. Vì vậy, họ coi trọng các quan hệ xã hội, coi trọng gia đình, tích cực học tập, tích cực học thêm. Những kiến thức họ được học ở phổ thông có tính chất cơ bản, phổ cập không bị gián đoạn, chưa va chạm trong thực tế, nên khi học ở phổ thông trung học đảm bảo tính liên thông, tính kế thừa và phát triển. Khi học ở phổ thông, họ đã ý thức được vị trí của mình qua các chủ trương chính sách, quy định, quy chế hiện hành. Vì vậy họ phải có sự tự điều chỉnh, tự rèn luyện, sự vươn lên trong môi trường phổ thông trung học. Những sự tác động trên đã đưa họ vào những hoạt động cụ thể một cách tích cực như: nghe nói chuyên đề về chế độ chính sách pháp luật, tham gia lao động công ích, tham gia hoạt động văn hóa văn nghệ, quyên góp từ thiện, ủng hộ Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tìm hiểu về Đảng, Bác Hồ ...
Vì có hoài bão, ước mơ, có lý tưởng chính trị và ý chí vươn lên, nên học sinh đa số đã tích cực phấn đấu vào Đoàn, tuy nhiên đặc điểm của lứa tuổi cũng có những mặt hạn chế tác động đến tuổi trẻ học sinh.
Thứ nhất, tâm lý không thích nghe, không thích bàn luận đến các vấn đề chính trị mà thiên về những vấn đề tình bạn, tình yêu, văn hóa, nghệ thuật. Do đó chính trị ít được quan tâm. Thứ hai, vì chưa trải qua các hoạt động thực tiễn trong sản xuất, chiến đấu, thiếu kinh nghiệm sống, vốn sống chưa đủ nên dễ mơ hồ về chính trị, ngại tham gia công tác đoàn thể. Sự chưa từng trải này nguy hiểm ở chỗ là dễ bị các thế lực chính trị xấu lôi cuốn thông qua các hình thức hoạt động khác... Chính vì vậy, như Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội. Trong xã hội cũ có nhiều nọc độc nó làm hại thanh niên, nhất là văn hóa độc ác của Mỹ, nó dùng mọi cách như sách báo, phim ảnh v.v... để làm cho thanh niên hư hỏng trụy lạc, thậm chí một số thanh niên hóa ra lưu manh, trộm cắp, cờ bạc, v.v... Người còn nói rằng: Từ tiểu học, trung học cho đến đại học, là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên, óc những người trẻ tuổi trong sạch như một tấm lụa trắng, nhuộm xanh thì nó sẽ xanh, nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Có nghĩa là sự chưa từng trải, sự thiếu vốn sống ấy phải được sự tác động tích cực của nhiều hình thức giáo dục phù hợp với lứa tuổi để tạo ra nhu cầu và cũng là để chiếm lĩnh khoảng trống trong họ trên mặt trận tư tưởng. Do có sức sống dồi dào, có nguyện vọng muốn được thử sức mình nhưng lại chưa đủ kinh nghiệm sống và không phải mọi mục tiêu đặt ra đều được ý thức rõ ràng, cho nên đôi khi trong thâm tâm học sinh không thấy thỏa mãn, họ dễ thay đổi mục tiêu đã đề ra. Họ thường quan tâm tới bản thân và nhân cách của mình nên càng đề cao mình quá mức, và trong mọi hoạt động họ đều muốn thử sức, muốn bộc lộ khả năng của mình và nhiều khi không phân biệt hoạt động đó là xấu, là tốt thế nào. Những đặc điểm này dẫn đến dễ ngả nghiêng trước những bước ngoặt, trước những vấn đề phức tạp của cuộc sống, dẫn đến những hành động bột phát trái với pháp luật, trái với đạo đức, với những tiêu chuẩn hành vi đã được xã hội chấp nhận, nhất là trong lối sống, nếp sống. Bác Hồ đã nêu rõ trong bức thư gửi thanh niên: Nói tóm lại: ưu điểm của thanh niên ta là hăng hái giàu tinh thần xung phong; khuyết điểm là: ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh "anh hùng".
Ngoài sự tác động của các đặc điểm tâm lý lứa tuổi, đạo đức của học sinh phổ thông trung học còn chịu ảnh hưởng không nhỏ của các điều kiện kinh tế - xã hội khác.
Nhờ đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa quan trọng qua 15 năm đổi mới, đất nước ta không những đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng mà còn tăng trưởng kinh tế nhanh.
Nhiều công trình kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đời sống vật chất của đại bộ phận nông dân được cải thiện. Nhờ vậy nhiều gia đình học sinh đã có mức sống cao hơn, học sinh khi tốt nghiệp ra trường có thêm điều kiện xin việc làm, ăn uống tuy chất lượng chưa cao nhưng số lượng có thể đảm bảo, nhiều học sinh có khả năng đã theo học nhiều lớp nghề, bổ túc kiến thức về chuyên môn, một số học sinh vẫn có thể làm tiếp việc nhà, hình thức ăn mặc phong phú, màu sắc đa dạng hơn trước, đa số có phương tiện đi lại riêng.
Sự tác động của những mặt trên đã làm cho nhân dân và học sinh phấn khởi, lòng tin và sự gắn bó với Đảng, với chế độ được củng cố. Con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh đã bước đầu khơi dậy ở học sinh những lý tưởng và hoài bão cao đẹp. Nhờ thành tựu kinh tế, họ thấy được sự đúng đắn của đường lối đổi mới và ý thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thấy được tầm quan trọng của nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ quá độ và trách nhiệm học tập của mình.
Mặt khác, cơ chế thị trường trong mấy năm gần đây cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành đạo đức của học sinh. Cơ chế thị trường đã gây ra sự phân hóa giàu nghèo, xuất hiện sự bất công trong xã hội "kẻ ăn không hết, người lần không ra", lối sống chạy theo sự sùng bái của đồng tiền,... Nhiều thanh niên học sinh tiêm nhiễm tâm lý tiêu xài, đua đòi chơi sang, tiêu dùng hàng ngoại đắt tiền, nhưng vì gia đình không đủ cung cấp nên đã trở thành lưu manh, trộm cắp.
"Kinh tế thị trường - như Đảng ta đã xác định - có những mặt tiêu cực, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm". Kinh tế thị trường, dĩ nhiên cũng có sự tác động tích cực chẳng hạn như trong mấy năm gần đây, phần đông học sinh quan tâm lo lắng đến kết quả học tập của mình, vì có liên quan trực tiếp đến tương lai sau này. Nhưng vì ở nước ta, cơ chế thị trường đang ở giai đoạn sơ khai, mang nhiều yếu tố tự phát, hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp, vẫn chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường, vẫn chưa hạn chế được nhiều mặt tiêu cực của cơ chế đó. Vì thế, cho nên trong xã hội xuất hiện nhiều tiêu cực: tư tưởng thực dụng, lối sống chạy theo đồng tiền, nạn tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính và nhiều tệ nạn xã hội khác phát triển nghiêm trọng đã làm cho nhiều người dao động, giảm sút niềm tin vào đường lối chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, một số xa rời lý tưởng, sa sút phẩm chất đạo đức. ở học sinh,các biểu hiện trên có tác động tới tư tưởng tình cảm đạo đức của họ. Học sinh xuất thân từ các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau, lại đang trong giai đoạn còn phụ thuộc nhiều vào gia đình cả về kinh tế lẫn kinh nghiệm sống. Vì vậy, trong học sinh không thể không bị ả