Văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn có liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội, ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử. Văn hoá được coi là nhân tố quyết định đến sự phát triển bền vững của một quốc gia dân tộc. Văn hoá của môt dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc và nét văn hoá riêng của dân tộc ấy. Bản sắc dân tộc thể hiện trong giá trị văn hoá của dân tộc, nó biểu hiện cho sự định hướng và lựa chọn trong hành động của con người. Vì thế, vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong lễ phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá “ vào năm 1988, Tổng giám đốc UNESCO đã nhấn mạnh: “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá, và khả năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều” [47, tr.].
Việt Nam là một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời và là một quốc gia đa dân tộc. 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hoá tạo nên nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi dân tộc được phân bố ở các vùng miền của Tổ quốc và có giá trị truyền thống, sắc thái văn hoá riêng. Việc kế thừa, phát triển sắc thái, giá trị văn hoá các dân tộc có ý nghĩa làm phong phú thêm nền văn hoá Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đề cao vai trò của văn hoá và phát huy vai trò to lớn của văn hoá - xã hội. Coi văn hoá là một trong yếu tố không thể thiếu trong việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội và chính sách đối ngoại của Đảng. Chính vì vậy, cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tại hội nghị TW 4, khoá VII (01/1993), Đảng ta đã xác định” Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”[ ]. Trong những năm gần đây, Đảng ta rất chú trọng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc thiểu số. Nghị quyết 22 của Bộ chính trị nêu rõ:
Nền văn minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ sở mỗi dân tộc phát huy bản sắc văn hoá của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác và góp phần phát triển văn hoá chung của cả nước, tạo ra sự phong phú đa dạng trong nền văn minh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam [9, tr.51].
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn và phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ” [12, tr.33].
Vì vậy việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam nói chung, bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số nói riêng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng để thực hiện mục tiêu: “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Hà Giang là tỉnh biên giới, nơi địa đầu của Tổ quốc, có 22 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó, người Mông là dân tộc thiểu số đông nhất hiện nay với số dân trên 200.000 người, chiếm 1/3 số người Mông của cả nước. Trong những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi, xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hoá truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong có văn hoá dân tộc Mông. Trước sự tác động của cơ chế thị trường, đã có một số bộ phận không nhỏ người Mông có xu hướng cực đoan rũ bỏ văn hoá truyền thống của mình để tin vào các thần bảo hộ ở nhà, đi tìm đức tin mới từ “Vàng Trứ”, “Thìn Hùng” (đức chúa trời). Sự tác động của giáo phái lạ đã tác động sâu sắc đến văn hoá người Mông và nó đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ đựơc bản sắc văn hoá dân tộc mình. Trước tình hình đó việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Mông ở Hà Giang, hiện đang là vấn đề cấp thiết. Điều đó không những có ý nghĩa đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hoá của các dân tộc Mông, mà còn có ý nghĩa phát huy vai trò của văn hoá đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
105 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn có liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội, ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử. Văn hoá được coi là nhân tố quyết định đến sự phát triển bền vững của một quốc gia dân tộc. Văn hoá của môt dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc và nét văn hoá riêng của dân tộc ấy. Bản sắc dân tộc thể hiện trong giá trị văn hoá của dân tộc, nó biểu hiện cho sự định hướng và lựa chọn trong hành động của con người. Vì thế, vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong lễ phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá “ vào năm 1988, Tổng giám đốc UNESCO đã nhấn mạnh: “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá, và khả năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều” [47, tr.].
Việt Nam là một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời và là một quốc gia đa dân tộc. 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hoá tạo nên nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi dân tộc được phân bố ở các vùng miền của Tổ quốc và có giá trị truyền thống, sắc thái văn hoá riêng. Việc kế thừa, phát triển sắc thái, giá trị văn hoá các dân tộc có ý nghĩa làm phong phú thêm nền văn hoá Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đề cao vai trò của văn hoá và phát huy vai trò to lớn của văn hoá - xã hội. Coi văn hoá là một trong yếu tố không thể thiếu trong việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội và chính sách đối ngoại của Đảng. Chính vì vậy, cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tại hội nghị TW 4, khoá VII (01/1993), Đảng ta đã xác định” Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”[ ]. Trong những năm gần đây, Đảng ta rất chú trọng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc thiểu số. Nghị quyết 22 của Bộ chính trị nêu rõ:
Nền văn minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ sở mỗi dân tộc phát huy bản sắc văn hoá của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác và góp phần phát triển văn hoá chung của cả nước, tạo ra sự phong phú đa dạng trong nền văn minh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam [9, tr.51].
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn và phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội…” [12, tr.33].
Vì vậy việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam nói chung, bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số nói riêng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng để thực hiện mục tiêu: “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Hà Giang là tỉnh biên giới, nơi địa đầu của Tổ quốc, có 22 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó, người Mông là dân tộc thiểu số đông nhất hiện nay với số dân trên 200.000 người, chiếm 1/3 số người Mông của cả nước. Trong những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi, xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hoá truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong có văn hoá dân tộc Mông. Trước sự tác động của cơ chế thị trường, đã có một số bộ phận không nhỏ người Mông có xu hướng cực đoan rũ bỏ văn hoá truyền thống của mình để tin vào các thần bảo hộ ở nhà, đi tìm đức tin mới từ “Vàng Trứ”, “Thìn Hùng” (đức chúa trời). Sự tác động của giáo phái lạ đã tác động sâu sắc đến văn hoá người Mông và nó đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ đựơc bản sắc văn hoá dân tộc mình. Trước tình hình đó việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Mông ở Hà Giang, hiện đang là vấn đề cấp thiết. Điều đó không những có ý nghĩa đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hoá của các dân tộc Mông, mà còn có ý nghĩa phát huy vai trò của văn hoá đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Hà Giang hiện nay.
Với những lý do trên, học viên chọn “Vấn đề kế thừa và phỏt huy bản sắc văn hoỏ dõn tộc Mụng ở tỉnh Hà Giang hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sỹ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đã có khá nhiều công trình, đề tài nghiên cứu đề cập đến ở những góc độ, những hướng tiếp cận khác nhau.
- Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hoá dân tộc có những tác phẩm tiêu biểu như:
"Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Huy Cận, Nxb Chính trị Quốc gia, 1994. "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", PGS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. "Bản sắc văn hóa Việt Nam", Phan Ngọc, Nxb Văn học, 2002. "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên). "Bản sắc văn hóa dân tộc", Hồ Bá Thâm, Nxb Văn hóa Thông tin, 2003.
Những cuốn sách trên đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến bản sắc văn hoá dân tộc ở Việt Nam, nghiên cứu đặc điểm, vai trò, bản sắc văn hoá Việt Nam trong đời sống hiện nay, đặc biệt là đời sống văn hóa khi đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa.
Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có:
"Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số" của Lò Giàng Páo, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997. "Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", Ngô Văn Lệ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998. Đề tài: "Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá", Luận văn thạc sĩ Triết học của Phạm Việt Thắng, 2002, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đề tài: "Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Gia Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003 của Đỗ Văn Hòa. Đề tài: "Kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006 của Phạm Thị Thảo.
Nghiên cứu văn hóa dân tộc Mông có các công trình:
“Dân tộc Mông ở Việt Nam”, Cư Hoà Vần - Hoàng Nam ,1994, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội. “Văn hoá dân tộc Mông Hà Giang”, Trường Lưu – Hùng Đình Quý, Sở văn hoá - Thông tin – Thể thao, Hà Giang, 1996. “Văn hoá H'mông”, Trần Hữu Sơn, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. "Các dân tộc Hà Giang", Lê Đại Nghĩa- Triệu Đức Thanh, Nxb thế giới, 2004. "Văn hóa tâm linh người Mông ở Việt Nam truyền thống và hiện đại", Nxb Văn hóa thông tin và viện văn học, Hà Nội, 2005. Sở Văn hoá Thông tin Hà Giang (2006), Hồ sơ khảo sát văn hoá cổ truyền tộc người Mông, thuộc dự án KX-HG-03(04), Hà Giang. Và nhiều bài viết trên các tạp chí: Dân tộc học, nghiên cứu lịch sử...
Các công trình trên là hết sức có giá trị tạo nên một cái nhìn tổng quan về văn hoá các dân tộc. Nhiều công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc điểm chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc Mông ở nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá trị văn hóa, phong tục tập quán nhằm giới thiệu về người Mông; những nét đặc sắc - cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc Mông. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung, chưa có công trình khoa học nào đề cập đến vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Mông một cách có hệ thống dưới góc độ triết học. Mặc dù vậy, những kết quả nghiên cứu trên đây là nguồn tư liệu quan trọng, là cơ sở để học viên tiếp thu, nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ bản sắc văn hoá dân tộc Mông, phân tích thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông, đề xuất một số nguyên tắc và nhóm giải pháp cơ bản nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Mông ở Hà Giang hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
Một là, làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Mông, tính tất yếu khách quan và một số nguyên tắc cơ bản của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mông ở Hà Giang
Hai là, đánh giá thực trạng và vấn đề đặt ra trong việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở Hà Giang hiện nay.
Ba là, đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản, nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mông ở Hà Giang trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mông ở Hà Giang trên góc độ triết học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và phong phú... Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Mông mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh triết học những giá trị văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Mông ở Hà Giang nhằm kế thừa và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa, về dân tộc và chính sách dân tộc, nhất là quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; đồng thời có tham khảo một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, sách, báo... tài liệu có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch, điều tra, so sánh... nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của tộc Mông ở Hà Giang; phân tích và hệ thống hóa các giá trị văn hóa của dân tộc Mông dưới góc độ triết học. Qua đó đưa ra những giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Mông ở Hà Giang trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn: Địa lý Địa phương, Văn hoá học, Dân tộc học…ở trường Cao đẳng sư phạm Hà Giang. Đồng thời nó còn làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ hoạch định chính sách và quản lý văn hoá ở tỉnh Hà Giang.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý luận về văn hóa, bản sắc văn hóa, vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá; đồng thời góp phần khẳng định vai trò, ý nghĩa của những giá trị văn hóa của dân tộc Mông ở Hà Giang theo hướng: Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn: Địa lý địa phương, Văn hóa, Dân tộc học... ở các nhà trường, làm tài liệu tham khảo cho cán bộ hoạch định chính sách và quản lý văn hóa ở tỉnh Hà Giang.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày trong 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Sự cần thiết và nguyên tắc cơ bản trong việc kế thừa, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mông
ở nước ta hiện nay
1.1. bản sắc văn hóa dân tộc và cần thiết kế thừa, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mông ở nước ta hiện nay
1.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm hết sức phong phú. Mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình trên thế giới vật chất lẫn tinh thần có mối liên hệ với con người, được con người tìm hiểu, nhận thức, tác động và ảnh hưởng trở lại con người đều có khía cạnh văn hóa của nó. Vì vậy, trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ càng phát triển, trình độ tư duy của con người ngày càng cao thì nội hàm văn hóa càng được mở rộng không ngừng.
Văn hóa được chọn làm đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học, nó trở thành một thuật ngữ đa nghĩa. Trên thế giới hiện nay có rất nhiều định nghĩa, nhiều cách tiếp cận văn hóa.
PGS Trường Lưu cho rằng nhìn một cách tổng quát, các nhà khoa học thường dựa vào mức độ khái quát và phạm vi đối tượng để chia ra có 3 cấp độ tiếp cận:
Thứ nhất: cấp độ khái quát nhằm đạt tới khái niệm chung về đặc điểm một lĩnh vực mang tính bao trùm.
Thứ hai: cấp độ giá trị tinh thần được tri phối bởi bản chất văn hóa.
Thứ ba: cấp độ hệ thống từng lĩnh vực cụ thể của giá trị tinh thần được thể hiện thành sản phẩm vật chất [34], [37].
Hướng tiếp cận thứ ba dựa vào cấu trúc hệ thống của sự vật để hiểu sự vật qua một biểu tượng nào đó, lựa chọn những biểu tượng tượng trưng cho một nền văn hóa. Thí dụ Kim tự tháp là biểu tượng cho văn hóa Ai Cập, tháp Epphen là biểu tượng của văn hóa Pháp, trống Đồng Đông Sơn là biểu tượng của văn hóa Việt Nam...Nhưng rõ ràng biểu tượng chỉ mới là giai đoạn cao của nhận thức cảm tính, mới chỉ ở cấp độ tượng trưng, là đại diện chứ chưa phải là toàn bộ bản chất văn hóa.
Hướng tiếp cận thứ hai chính là khuynh hướng của học thuyết giá trị. Nhưng phải thấy tính hai mặt của học thuyết này; mọi giá trị đều thể hiện mối quan hệ giữa người và vật; chỉ khi nào sự vật khách quan có ích cho con người thì mới gọi là giá trị. Nhưng giá trị không chỉ quyết định bởi bản thân sự vật mà còn quyết định bởi con người đang chịu chi phối của giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thời đại...do đó một giá trị có thể đưa ra nhiều cách nhìn khác nhau. Giá trị mới chỉ là thước đo của văn hóa chứ chưa phải là bản thân văn hóa.
TSKH Đỗ Khang nhận xét rằng lâu nay nghiên cứu văn hóa người ta thường tiếp cận theo khuynh hướng giá trị luận ít chú ý đến bản thể luận, nặng về mối quan hệ giữa giá trị văn hóa và chủ thể chứ chưa phải là bản thân văn hóa.
GS Phan Ngọc quan niệm rằng, một khi văn hóa không phải là một đồ vật, mà là một mối quan hệ, có mặt ở mọi tộc người và chỉ ở con người mà thôi, thì không thể nào tìm một định nghĩa về văn hóa ở các ngành khoa học tự nó đã chia cắt loài người ra thành những tập đoàn khác nhau như dân tộc học, xã hội học, kinh tế học, chính trị học. Cần phải tìm nó ở những khoa học nghiên cứu loài người một cách tổng thể như tâm lý học, triết học [62, tr.15]. Quan niệm của GS Phan Ngọc cũng chứng tỏ các nhà văn hóa học cũng muốn "thoát ra" khỏi văn hóa học để định nghĩa văn hóa. Đó chính là hướng tiếp cận thứ nhất, hướng tiếp cận ở góc độ khái quát nhằm đạt tới khái niệm chung về đặc điểm một lĩnh vực mang tính bao trùm. Đó chính là hướng tiếp cận của Triết học.
Để xác định được triết học tiếp cận văn hóa như thế nào, nghiên cứu khía cạnh nào của văn hóa, chúng ta cần tiếp thu ý kiến của các nhà Triết học trong lịch sử, nhất là các nhà Triết học trong lịch sử, nhất là các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
Các nhà triết học cổ đại Phương Đông đều nhất mạnh khía cạnh quan hệ Lễ - Nghĩa của cộng đồng; các nhà triết học cổ đại phương Tây nhấn mạnh các điều kiện khách quan qui định nên tính cách dân tộc, tính đặc thù và tính cách của mỗi dân tộc người, ý nghĩa nhân đạo trong phương thức ứng xử của con người. Các yếu tố đó có ý nghĩa đối với sự phát triển xã hội.
Trong thời cận đại nhà triết học người Anh, Jon locke (1632 - 1704) quan tâm đến ý nghĩa của những nét đặc thù trong hoạt động sống của các cộng đồng, vai trò và ý nghĩa của các dạng văn hóa, đặc biệt ông đề cao ý nghĩa của văn hóa tộc người.
Nhà triết học người Đức, J G Hecđe (1744 -1804) là người đã nghiên cứu một cách có hệ thống về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển của các dân tộc cũng như toàn xã hội. Ông cho rằng văn hóa là cái tạo ra tinh thần của dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăngghen quan niệm bản chất văn hóa thể hiện trong mối quan hệ biện chứng giữa con người và xã hội: "Bản chất của con người không phải là cái gì trìu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội" [40,11].
C.Mác gọi hoạt động sống của con người là những hoạt động thể hiện quan hệ con người với con người, con người với xã hội. C.Mác vạch rõ nguồn gốc của văn hóa gắn liền với những năng lực sáng tạo của con người. Sự sáng tạo đó bắt nguồn từ lao động. Văn hóa là sự "Thăng hoa" của sản xuất vật chất. Ông cho rằng người ta có thể căn cứ vào mức độ tự nhiên được con người khai thác chuyển biến thành bản chất con người như thế nào để đánh giá trình độ văn hóa.
C.Mác viết "Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu cầu của giống loài nó, con người chỉ có thể áp dụng thước đo thích dụng cho đối tượng. Do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp" [40, 10].
C.Mác cho rằng việc con người tạo ra " thiên nhiên thứ hai" theo quy luật của cái đẹp là thuộc tính bản chất, chính đó là cái văn hóa trong hoạt động của con người. Như vậy theo C.Mác, hoạt động của con người không chỉ thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc, ở...mà còn là kết tinh năng lực sáng tạo, là cách sống, phương thức sống, phương thức bộc lộ nhân tính, biểu hiện ra trong toàn bộ sản phẩm vật chất, tinh thần do chính con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử - xã hội của mình. Con người là thước đo của mỗi giá trị, còn văn hóa là thước đo nhân tính sự sáng tạo và thái độ của con người trước hiện thực. Vì vậy Ph.Ăngghen đã nói "Mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa lại là một bước tiến tới tự do" [41,164].
Khi bàn về văn hóa, V.I.Lênin cho rằng, trong xã hội có giai cấp, luôn luôn tồn tại hai nền văn hóa, nền văn hóa của giai cấp thống trị và nền văn hóa của nhân dân lao động. Ông khẳng định tính tất yếu của cách mạng văn hóa, cuộc cách mạng này hết sức khó khăn vì trình độ dân trí và cơ sở hạ tầng lạc hậu song không phải ngồi chờ lực lượng sản xuất phát triển rồi mới làm cách mạng văn hóa, mà phải chủ động tạo ra các tiền đề căn bản của nền văn hóa cách mạng, là yếu tố rất quan trọng để xây dựng xã hội mới. V.I.Lênin đã gắn văn hóa với phát triển, chỉ ra mục tiêu quan trọng nhất của văn hóa là hoàn thiện con người về mọi mặt. Vì vậy phải biết kế thừa có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống.
Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa thế giới đã đưa ra một định nghĩa ở cấp độ khái quát về văn hóa:
Vì lẽ sinh tồn, cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo, phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc,ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [46, 431].
Định nghĩa trên đây đã xác định văn hóa là sự phát triển tất yếu, mang tính xã hội cao, là phương thức sống, hoạt động và không ngừng được nâng cao theo đà phát triển của xã hội. Sáng tạo và giá trị nhân văn là nội dung cốt lõi của văn hóa.
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hóa” tại Pháp (21/1/1998), Tổng thư ký UNESCO định nghĩa:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [72, tr.23].
UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định nghĩa khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật chất của hoạt động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã khách thể hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau” [28, tr.11]. Định nghĩa này nhấn mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm vật chất và các hệ thống giá trị các mẫu mực xử thế và các hệ thống hành vi. Vấn đề cần được nhấn mạnh ở đây là trong khái niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được thừa nhận hoặc có nhiều khả năng được thừa nhận trong một nhóm xã hội, và được truyền bá cho các cá thể hoặc các nhóm trong cộng đồng.
Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của mình [24, tr.13-14].
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử của con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở thành người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần, là sự thể hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực sản xuất tinh thần của con người. Từ đó, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục tập quán… Như thế, văn hóa không phải là một vật cụ thể, người ta không thể tìm được sự vật hiện tượng nào kể cả trong tự nhiên, một khi đã đặt trong quan hệ con người đều biểu hiện mặt văn hóa. Như vậy văn hóa vừa là cụ thể, vừa là trìu tượng.
Từ cách tiếp cận trên, chúng ta có thể hiểu: Văn hóa là năng lực sáng tạo, là thái độ, phương thức sống, phương thức hoạt động, tính nhân đạo của con người trong quá trình sản xuất, đấu tranh làm nên các giá trị vật chất, tinh thần, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
ở Việt Nam, khi luận bàn về văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa, hai cấp độ khác nhau: ở phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với văn hóa của một tộc người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người + tộc danh, là một chi tiết của văn hóa nói chung. Phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung của cả cộng đồng tộc người (Nation) sống trong cùng một quốc gia.
Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ của một tộc người, phản ánh những nhận thức, tâm lý, tình cảm, tập quán riêng biệt được hình thành trong lịch sử của tộc người đó. ở các quốc gia đa dân tộc, văn hóa của các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau tạo nên nét chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi nền văn hóa đều có những giá trị riêng của nó. Giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã di truyền xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó, đã được tích lũy lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình đó đã hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc họ. Cộng đồng sẽ bền vững khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa, bởi: “Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc; một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả” [65, tr.13]. Một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh mất chính mình, một nền văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc của dân tộc. Chính vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi dân tộc. Đúng như đồng chí Đỗ Mười đã khẳng định:
Ngày nay văn hoá được coi là một yếu tố nội sinh, không phảI chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân của sự phát triển xã hội, phảI đặt trên nền tảng văn hoá mang bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu những giá trị tinh hoa của loài người. Văn hoá phảI kết tinh thành trí tuệ của cả dân tộc, được thừa kế, phát triển qua nhiều thế hệ, tạo ra sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn của toàn dân để xây dựng và bảo vệ tổ quốc [91, 81].
- Bản sắc văn hóa:
Dân tộc nào cũng có nền văn hóa truyền thống.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- bia.doc