Nghị quyết Trung ương năm khoá VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” được Đảng ta xác định là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bước vào thời kỳ hội nhập đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh, vấn đề xây dựng nền văn hoá mới đáp ứng yêu cầu phát triển chung của đất nước, hòa nhập với khu vực và quốc tế lại càng có ý nghĩa quan trọng. Quá trình hội nhập tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam.
Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa dân tộc đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ được bản sắc. Do vậy khẳng định hệ giá trị văn hoá các dân tộc đang là vấn đề cấp thiết vừa có tính thời sự, vừa lâu dài đảm bảo cho quá trình hội nhập mà không bị hoà tan.Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm, khóa VIII. Đảng ta chủ trương: Phải tiếp tục cụ thể bằng hệ thống các chính sách mạnh, tạo điều kiện cần thiết để văn hóa các dân tộc thiểu số phát triển trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Nước ta có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có những sắc thái, bản địa riêng, chúng bổ sung cho nhau làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc tạo nên nền văn hoá nước ta là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng. Trong cộng đồng đa dân tộc, dân tộc Giáy là dân tộc có số dân đứng thứ 25 trong 54 dân tộc. Người Giáy là cư dân lúa nước. Họ cư trú ở nơi bằng phẳng, có sông suối, hay ở thung lũng thuộc các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng. Riêng ở Lào Cai có 24.360 người Giáy cư trú tập trung thành làng, thành bản. Sự phong phú về cảnh quan, môi trường đã tác động rất lớn đến đời sống của người Giáy ở đây, làm nên một đời sống văn hóa dân gian khá phong phú. Nó biểu hiện ở thế giới quan, nhân sinh quan, phong cách tư duy, lối sống, sinh hoạt, ứng xử, tình cảm v.v của con người. Trước sự vận động và biến đổi của thế giới luôn diễn ra không ngừng, sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, điều đó không thể không ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt là bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở Lào Cai trong đó có dân tộc Giáy. Việc giữ gìn bản sắc văn hoá từng dân tộc đang là chuyện thời sự của thời đại và cũng đang là vấn đề được đặt ra với nước ta.
Nội dung tài liệu Luận văn Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở tỉnh Lào Cai hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Trung ương năm khoá VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” được Đảng ta xác định là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bước vào thời kỳ hội nhập đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh, vấn đề xây dựng nền văn hoá mới đáp ứng yêu cầu phát triển chung của đất nước, hòa nhập với khu vực và quốc tế lại càng có ý nghĩa quan trọng. Quá trình hội nhập tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam.
Trước sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa dân tộc đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ được bản sắc. Do vậy khẳng định hệ giá trị văn hoá các dân tộc đang là vấn đề cấp thiết vừa có tính thời sự, vừa lâu dài đảm bảo cho quá trình hội nhập mà không bị hoà tan.Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm, khóa VIII. Đảng ta chủ trương: Phải tiếp tục cụ thể bằng hệ thống các chính sách mạnh, tạo điều kiện cần thiết để văn hóa các dân tộc thiểu số phát triển trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Nước ta có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có những sắc thái, bản địa riêng, chúng bổ sung cho nhau làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc tạo nên nền văn hoá nước ta là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng. Trong cộng đồng đa dân tộc, dân tộc Giáy là dân tộc có số dân đứng thứ 25 trong 54 dân tộc. Người Giáy là cư dân lúa nước. Họ cư trú ở nơi bằng phẳng, có sông suối, hay ở thung lũng thuộc các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng. Riêng ở Lào Cai có 24.360 người Giáy cư trú tập trung thành làng, thành bản. Sự phong phú về cảnh quan, môi trường đã tác động rất lớn đến đời sống của người Giáy ở đây, làm nên một đời sống văn hóa dân gian khá phong phú. Nó biểu hiện ở thế giới quan, nhân sinh quan, phong cách tư duy, lối sống, sinh hoạt, ứng xử, tình cảm v.v…của con người. Trước sự vận động và biến đổi của thế giới luôn diễn ra không ngừng, sự tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, điều đó không thể không ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa dân tộc. Đặc biệt là bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở Lào Cai trong đó có dân tộc Giáy. Việc giữ gìn bản sắc văn hoá từng dân tộc đang là chuyện thời sự của thời đại và cũng đang là vấn đề được đặt ra với nước ta.
Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, để đóng góp phần nhỏ vào mục tiêu của cả nước nói chung, và tỉnh Lào Cai nói riêng, tôi chọn “Vấn đề giữ gỡn và phỏt huy bản sắc văn húa dõn tộc Giỏy ở Tỉnh Lào Cai hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học triết học của mình.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề này đã được nhiều người nghiên cứu ở những phạm vi và góc độ khác nhau.
Nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa dân tộc có những tác phẩm tiêu biểu: Huy Cận "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Ngô Văn Lệ "Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam", Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998; Hoàng Nam "Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người văn hóa Việt Nam", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998;Nguyễn Từ Chi "Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người", Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2003; Hồ Bá Thâm "Bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Văn hóa Thông tin, 2003; Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004 ; Vy Trọng "Bản sắc văn hóa hành trang của mỗi dân tộc", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2005.
Kể từ khi Đảng ta chủ trương thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề về văn hóa các dân tộc thiểu số được chú ý đặc biệt. Liên quan đến vấn đề này đã có có nhiều tạp chí và nhiều cuốn sách nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau như: Đề tài "Nền văn hóa đa dân tộc Việt Nam", Ban chấp hành Hội Văn Hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hà Nội, 1992; , Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996; Lò Giàng Páo "Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997; Ngô Văn Lệ "Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998. Đề tài của Lê Thị Mỹ Vân "Văn hóa truyền thống của các dân tộc Jrai và Bahnar ở tỉnh Gia Lai hiện nay - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ Triết học, 1999, Đại học KHXH & NV - ĐHQG Hà Nội; ; Nguyễn Khoa Điềm "Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 7/2000; Đỗ Văn Hòa "Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Gia Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003; Đinh Thị Hoa, "Nhân tố chủ quan với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường Tỉnh Phú Thọ hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Hà Nội, 2006; Trần Văn Bính (chủ biên), "Văn hóa các dân tộc Tây Bắc - thực trạng và những vấn đề đặt ra", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số vùng tây bắc nước ta", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2007, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc Gia HCM, Hà Nội, 01- 2008.
Đặc biệt những bài viết và công trình nghiên cứu về văn hoá dân tộc Giáy có liên quan trực tiếp đến luận văn như:
Lò Ngân Sủn, Sần Cháng (sưu tầm, tuyển dịch), "Tục ngữ Giáy", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1994; Lù Dín Siềng "Truyện cổ Giáy", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1995; Sần Tráng "Văn học dân gian Tỉnh Lào Cai – Dân tộc Giáy Lào Cai", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996; Sần Tráng “ Vươn chang hằm ( dân ca Giáy)”, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2000; Sần Tráng "Dân ca trong đám cưới và trong tiệc rượu người Giáy", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2001; Sần Tráng “ Giới thiệu Mo lễ tang dân tộc Giáy Lào Cai”, Hội văn học nghệ thuật Tỉnh Lào Cai, 2003; Sần Tráng "Một số phong tục tập quán dân tộc Giáy Lào Cai", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2003.
Nhìn chung: Các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc điểm chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc Giáy ở nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Giáy (nói chung), người Giáy ở Lào Cai (nói riêng) nhằm giới thiệu về những nét đặc sắc - cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc Giáy. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới vấn đề bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy nhưng mới chỉ đề cập một cách chung chung hoặc đi sâu tìm hiểu một số nét văn hóa cụ thể; chủ yếu nghiên cứu về văn hóa dân tộc Giáy ở góc độ văn hóa, chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học. Mặt khác do tác động của kinh tế thị trường, tác động của mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề văn hoá dân tộc Giáy đang biến đổi và có những khía cạnh mới cần tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu thêm, từ đó có những giải pháp thiết thực để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy hiện nay. Chính vì vậy đề tài “Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Tỉnh Lào Cai hiện nay” góp phần vào thực hiện mục đích đó
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc Giáy, thực trạng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Lào Cai, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn và phát huy tốt bản sắc văn hóa của dân tộc Giáy ở địa phương này hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt mục đích đã nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
+ Làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc Giáy, những nhân tố tác động tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Việt Nam hiện nay.
+ Phân tích thực trạng của việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Lào Cai hiện nay và những vấn đề đặt ra.
+ Nêu phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn, phát huy tốt bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở tỉnh Lào Cai hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Lào Cai dưới góc độ triết học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và phong phú... Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Giáy mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía cạnh triết học những giá trị văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Giáy ở Lào Cai nhằm giữ gìn và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa, về dân tộc và chính sách dân tộc. Đồng thời có kế thừa các thành tựu một số công trình liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp: Lịch sử và logic; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; điều tra, so sánh... nhằm đạt mục đích và nhiệm vụ mà luận văn đã đề ra.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm những nét đặc sắc của dân tộc Giáy, phân tích thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Giáy ở Lào Cai. Qua đó đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm giữ gìn và phát huy tốt bản sắc văn hóa của dân tộc Giáy ở Lào Cai trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý luận về bản sắc văn hóa và vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy ở Lào Cai hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn: Triết học, Văn hóa học, Dân tộc học... ở các nhà trường, đồng thời nó còn làm tài liệu tham khảo cho cán bộ hoạch định chính sách và quản lý văn hóa ở Tỉnh Lào Cai
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
bản sắc văn hóa dân tộc và tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Giáy hiện nay
1.1. Một số nét về bản sắc văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc Giáy
1.1.1. Một số nét về bản sắc văn hóa dân tộc
Để hiểu được bản sắc văn hoá dân tộc trước tiên chúng ta phải tìm hiểu khái niệm văn hoá là gì?
Văn hóa là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, trên thế giới hiện nay có tới hàng trăm cách định nghĩa về văn hóa. Song, về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa là những gì mà con người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người.
Theo quan điểm mác xít nền tảng của lịch sử là hoạt động lao động của con người và quá trình con người sáng tạo ra lịch sử cũng là quá trình con người sáng tạo văn hoá . Vì vậy lao động cũng được xem là nguồn gốc của văn hoá cho nên việc đưa ra một quan niệm về văn hoá nhất thiết phải căn cứ vào hoạt động có tính đặc trưng này của con người. Điều này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác quán triệt trong toàn bộ các luận giải của mình.
Quan điểm mácxít cho rằng lao động là hoạt động mà ở đó xác lập và thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa con người – tự nhiên, con người – xã hội và con người - văn hoá. Nếu như loài vật chỉ kiếm sống bằng cách lợi dụng những vật có sẵn trong tự nhiên và nhờ đó xác lập bản chất của chúng – bản chất của loài vật , thì ngược lại, qua lao động – tức là hoạt động cải biến tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người thì bản chất của con người cũng được xác lập và phát lộ mà C.Mác gọi là “ lực lượng bản chất người”. Sở dĩ Mác quan niệm như vậy, bởi vì lao động là một đặc thù của chính con người. Con vật hành động một cách bản năng, còn con người hành động có mục đích, có đối tượng và trước khi hành động con người đã có mô hình được xác lập trong óc. Tuỳ theo mô hình đó và phương thức thực hiện trong hoạt động mà con người sáng tạo ra văn hoá ở những trình độ khác nhau. Mặt khác, qua lao động các quan hệ của con người được xác lập, được biến đổi , kể cả quan hệ với tự nhiên. Vì vậy con người cũng được hoàn thiện dần, vì anh ta với tư cách là chủ thể của mọi hoạt động nhưng lại là khách thể chịu sự biến đổi của môi trường do chính anh ta tạo ra, cho nên cái bản năng tự nhiên của con người cũng được biến đổi và ngày càng có “tính người”. Nhờ vậy, văn hoá được quy định bởi phương thức để kiếm sống và phương thức sử dụng các sản phẩm được tạo ra.
Bàn đến văn hoá và sự phát triển của văn hoá , chủ nghĩa Mác còn thừa nhận, với tư cách là một hệ giá trị, văn hoá bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử, bởi năng lực thực hiện “ lực lượng bản chất người”. Vì vậy, mỗi bước tiến của lịch sử là một bước tiến tương ứng của văn hoá. Và mặc dù hệ giá trị văn hoá rất đa dạng, luôn luôn biến đổi cùng lịch sử nhưng hệ giá trị đó bao giờ cũng dịch chuyển về phía chủ nghĩa nhân đạo mà hằng số là chân - thiện – mỹ.
Khi so sánh hoạt động của con người và động vật, C.Mác cho rằng: cố nhiên súc vật cũng sản xuất, nó xây dựng tổ, chỗ ở của nó như con ong, con hải ly, con kiến… nhưng súc vật chỉ sản xuất cái mà bản thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến, nó sản xuất một cách phiến diện; còn con người thì sản xuất một cách toàn diện ; con vật chỉ sản xuất và bị chi phối bởi nhu cầu thể xác trực tiếp, còn con người sản xuất ngay cả khi được giải phóng khỏi nhu cầu của thể xác, và chỉ khi giải phóng khỏi nhu cầu đó thì con người mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của chữ đó, con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ thế giới tự nhiên; sản phẩm của con vật thì trực tiếp gắn liền với thể xác của nó, còn con người thì đối diện một cách tự do với sản phẩm của mình. Con vật chỉ chế tạo theo kích thước và nhu cầu của loài đó , còn con người có thể sản xuất theo kích thước của bất cứ loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng cái bản chất cố hữu của mình; do đó con người cũng chế tạo theo quy luật của cái đẹp.
Như vậy có thể nói việc con người tạo ra “thiên nhiên thứ hai” theo quy luật của cái đẹp là cái thuộc tính bản chất, quy định cái văn hoá trong hoạt động của con người. Nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành và phát triển con người thì văn hoá là cái nôi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quyết định sự tồn tại của con người với tư cách là một thực thể sinh vật thì văn hoá là phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất người gắn liền với các hoạt động sống của con người.
V. I . Lênin trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, bảo vệ và phát triển các nguyên lý của triết học Mác, V.I . Lênin đã phân tích sâu sắc thêm về mặt xã hội của văn hoá với cách tiếp cận từ hình thái kinh tế xã hội. Chính Lênin đã đề ra nguyên tắc quan trọng trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới. Đó là những nguyên tắc về tính đảng, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại trong văn hoá ; xác định sự nghiệp văn hoá là một bộ phận trong guồng máy cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Theo Lênin nền văn hoá vô sản có khả năng phát triển toàn diện năng lực bản chất của con người cho nên nó phải là sự kế thừa có phê phán các giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới, mang đậm chất liệu văn hoá và bản chất người. Lênin viết: “Nền văn hoá vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó không phải là do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản bịa đặt ra…văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến thức mà loài người đã tạo ra dưới ách áp bức của xã hội tư bản, địa chủ và của xã hội quan liêu” [47,tr. 402]
Nói đến bản chất của văn hoá, Hồ Chí Minh người học trò xuất sắc của C.Mác,
Ph. Ăngghen, V. I. Lênin , người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới – có quan niệm về văn hoá rất rộng; xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ truyền thống văn hiến ngàn đời của dân tộc Việt Nam, với tầm nhìn bao quát, Người đưa ra khái niệm về văn hoá như sau : “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [26 ,tr.431]
Quan điểm đó của Người đã khái quát được nội dung rộng nhất của phạm trù văn hoá, chỉ ra văn hoá không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con người mà còn bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất. Người cũng chỉ ra nguồn gốc sâu xa của văn hoá đó chính là nhu cầu sinh tồn của con người, với tư cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội. Nó biểu hiện sự thống nhất của yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội trong con người,biểu hiện khả năng và sức sáng tạo của con người.
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hóa” tại Pháp , Tổng thư ký UNESCO định nghĩa:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Trong quan niệm của Đảng ta, văn hoá là một lĩnh vực thực tiễn của đời sống xã hội, nó cũng có quy luật vận động phát triển riêng, trong đó tính dân tộc được coi là thuộc tính cơ bản của văn hoá, phản ánh mối quan hệ giữa dân tộc và văn hoá trong điều kiện dân tộc đã hình thành. Tính dân tộc là nội dung quan trọng luôn được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu. Trong bản đề cương văn hoá (1943) Đảng ta khẳng định nền văn hoá mới, phải đảm bảo tính dân tộc, tức là bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong suốt quá trình tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá. Tới hội nghị Trung ương 5 khoá VIII quan điểm đó được cụ thể hoá trong nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Gần đây tại Đại hội IX, nghị quyết Đại hội một lần nữa khẳng định:“Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội [17,tr.114]
Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định nghĩa khác nhau: “Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của mình”[24,tr.13-14]
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử của con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở thành Người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần, là sự thể hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực sản xuất tinh thần của con người. Từ đó, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục tập quán…
Từ một số khía cạnh đã trình bày ở trên có thể hiểu văn hoá là một hệ thống các giá trị xã hội( giá trị vật chất và giá trị tinh thần) cũng như phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến bộ của con người và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuy nhiên văn hoá không phải là “cái chung trừu tượng” giống nhau ở mọi xã hội, mọi cộng đồng- dân tộc. Nếu mỗi cộng đồng- dân tộc có đời sống xã hội riêng biệt, đặc thù, một lịch sử hình thành và một hiện thực con người không đồng nhất với các cộng đồng khác, thì tất nhiên văn hoá mang tính riêng biệt, đặc thù của mỗi dân tộc. Một dân tộc tồn tại là tồn tại cùng với nền văn hoá do chính mình tạo ra. Văn hoá in dấu mọi mặt của đời sống xã hội thuộc một dân tộc nhất định, của một cộng đồng riêng biệt , chúng ta gọi là “bản sắc dân tộc của văn hoá” hay “bản sắc văn hoá dân tộc”
Bản sắc văn theo nghĩa ban đầu “ bản của một sự vật” là cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của sự vật; còn “sắc của một sự vật” là cái biểu hiện ra bên ngoài của sự vật đó. Theo từ điển Tiếng Việt bản sắc là “màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính” [41,tr 31]
Có quan điểm cho rằng bản sắc là tính chất đặc biệt vốn có tạo thành phẩm cách riêng…Như vậy theo quan điểm này bản sắc của một sự vật là những đặc điểm riêng biệt chỉ có ở sự vật ấy.
Theo cách hiểu của chúng tôi, mỗi sự vật có nhiều thuộc tính( tính chất, đặc điểm, dấu hiệu, nét…) trong đó có những thuộc tính chung và những thuộc tính riêng, những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Những tính cơ bản của một sự vật chính là bản sắc của sự vật ấy. Nói đến bản sắc của mỗi sự vật trước hết là nói đến thuộc tính riêng của sự vật ấy, song thuộc tính riêng ấy gắn bó chặt chẽ với thuộc tính chung. Do đó theo chúng tôi bản sắc của một sự vật nào đó là tập hợp những thuộc tính cơ bản của sự vật ấy mà qua đó ta biết được sự giống và khác nhau giữa sự vật ấy với sự vật khác.
Khái niệm bản sắc được hiểu như trên, còn khái niệm dân tộc thì được hiểu như thế nào? Khái niệm dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa chính là dân tộc quốc gia (naion) và tộc người (ethnic, ethnie). Dân tộc quốc gia là “ Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung”.[41, tr.247). Ví dụ dân tộc Việt Nam, dân tộc Pháp…Một dân tộc quốc gia gồm nhiều tộc người với nhiều ngôn ngữ, phong tục tập quán, nếp sống văn hoá khác nhau. Tộc người là “Cộng đồng người có tên gọi, địa vực cư trú,, ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt và văn hoá riêng” [41, tr1008]; là “ Cộng đồng người có chung ngôn ngữ, lịch sử – nguồn gốc, đời sống văn hoá và ý thức tự giác dân tộc”. [51, tr.7]. Ví dụ dân tộc Kinh, dân tộc Giáy, dân tộc Tày…Một tộc người bao gồm nhiều nhóm địa phương khác nhau. Trong một dân tộc quốc gia, ngôn ngữ của tộc người chiếm đa số thường được coi là quốc ngữ (ngôn ngữ chính thức của dân tộc quốc gia).
Như vậy khi nói đến dân tộc chúng ta cần phân biệt hai nghĩa của khái niệm dân tộc. Trong luận văn này khi nói đến bản sắc văn hoá dân tộc, thì khái niệm dân tộc được hiểu theo nghĩa tộc người.
Trên cơ sở xác định nội dung cơ bản của các khái niệm bản sắc và dân tộc như trên làm cơ sở cho việc xác định khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc
Khi tìm hiểu một dân tộc nào đó chúng ta có thể nhận ra chữ viết, ngôn ngữ, phong tục tập quán, đặc biệt là những tính cách con người của dân tộc ấy, cho dù dân tộc đó đã trải qua bao biến thiên của lịch sử. Xuất phát từ đó một số quan điểm cho rằng, bản sắc của một dân tộc chỉ gồm có những đặc điểm riêng của dân tộc ấy. Như vậy quan điểm này đã tuyệt đối hoá tính đặc thù dân tộc . Một số quan điểm khác cho rằng, tuy có sự tồn tại khác biệt giữa các dân tộc, nhưng sự khác biệt này không phải là quan trọng và càng ít quan trọng hơn trong xu thế toàn cầu hoá, mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hoá. Đây là quan điểm phủ nhận tính đặc thù dân tộc. Mỗi quan điểm trên đều có những khía cạnh thực tế nhất định, nhưng tính cực đoan không bao giờ là chân lý. Vì thế bản sắc của một dân tộc là thuộc tính cơ bản của dân tộc ấy mà nhờ đó chúng ta biết được dân tộc ấy giống và khác dân tộc khác như thế nào.
Lịch sử loài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv in (sua).doc