Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đang bước sang giai đoạn mới đó là thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước định hướng XHCN. Trong bối cảnh lịch sử mới, hơn lúc nào hết Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đòi hỏi phải phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó phải kể đến một bộ phận quan trọng là thế hệ trẻ. Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Đối với thế hệ trẻ chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [19, tr.126].
Khi khẳng định vai trò to lớn của thế hệ trẻ trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, thì chúng ta cũng thấy được vai trò quan trọng của sinh viên Việt Nam. Bởi vì, sau khi ra trường họ sẽ trở thành những người lao động có trình độ cao đó là nguồn nhân lực chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng XHCN. Lực lượng đông đảo nhất và quan trọng nhất là sinh viên Hà Nội vì Hà Nội là nơi tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng lớn có bề dày về giáo dục và đào tạo. Vì vậy, sự phát triển bền vững của đất nước theo định hướng XHCN đòi hỏi khách quan phải trang bị cho họ nhận thức chính trị, những kiến thức về mục tiêu, con đường đi lên CNXH của dân tộc ta. Chính vì thế, giáo dục thế giới duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay vừa là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Bởi vì, trong bối cảnh hiện nay trước sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, trước chiến lược diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch đang chống phá CNXH, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng, một trong các đối tượng đó là thế hệ trẻ, nhằm làm cho hệ tư tưởng tư sản chiếm vị trí thống trị trong đời sống tinh thần. Hơn nữa, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường đang hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận sinh viên. Trong cơ chế thị trường xuất hiện sự may rủi làm nảy sinh tư tưởng cầu may dễ dẫn đến với thế giới quan tôn giáo, duy tâm. Đặc biệt là sinh viên Hà Nội hàng ngày, hàng giờ đang chịu sự tác động trực tiếp của lối sống thực dụng, của nền văn hóa phương Tây và cả niềm tin tôn giáo. Thực tế là một bộ phận không nhỏ trong sinh viên Hà Nội đã suy thoái về đạo đức, lối sống mơ hồ về chính trị, phai mờ về lý tưởng XHCN và đây là một bộ phận dễ bị các thế lực phản động lôi kéo. Vì vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
117 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1064 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng ở Hà Nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đang bước sang giai đoạn mới đó là thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước định hướng XHCN. Trong bối cảnh lịch sử mới, hơn lúc nào hết Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đòi hỏi phải phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó phải kể đến một bộ phận quan trọng là thế hệ trẻ. Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Đối với thế hệ trẻ chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [19, tr.126].
Khi khẳng định vai trò to lớn của thế hệ trẻ trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, thì chúng ta cũng thấy được vai trò quan trọng của sinh viên Việt Nam. Bởi vì, sau khi ra trường họ sẽ trở thành những người lao động có trình độ cao đó là nguồn nhân lực chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng XHCN. Lực lượng đông đảo nhất và quan trọng nhất là sinh viên Hà Nội vì Hà Nội là nơi tập trung nhiều trường đại học, cao đẳng lớn có bề dày về giáo dục và đào tạo. Vì vậy, sự phát triển bền vững của đất nước theo định hướng XHCN đòi hỏi khách quan phải trang bị cho họ nhận thức chính trị, những kiến thức về mục tiêu, con đường đi lên CNXH của dân tộc ta. Chính vì thế, giáo dục thế giới duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay vừa là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Bởi vì, trong bối cảnh hiện nay trước sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, trước chiến lược diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch đang chống phá CNXH, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng, một trong các đối tượng đó là thế hệ trẻ, nhằm làm cho hệ tư tưởng tư sản chiếm vị trí thống trị trong đời sống tinh thần. Hơn nữa, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường đang hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận sinh viên. Trong cơ chế thị trường xuất hiện sự may rủi làm nảy sinh tư tưởng cầu may dễ dẫn đến với thế giới quan tôn giáo, duy tâm. Đặc biệt là sinh viên Hà Nội hàng ngày, hàng giờ đang chịu sự tác động trực tiếp của lối sống thực dụng, của nền văn hóa phương Tây và cả niềm tin tôn giáo. Thực tế là một bộ phận không nhỏ trong sinh viên Hà Nội đã suy thoái về đạo đức, lối sống mơ hồ về chính trị, phai mờ về lý tưởng XHCN và đây là một bộ phận dễ bị các thế lực phản động lôi kéo. Vì vậy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài thế giới quan duy vật biện chứng có nhiều tác giả nghiên cứu, ở Liên Xô trước đây có các tác giả:
- V.L.Li Xốp Ski và A.V. Mitri EP, "Nhân cách của sinh viên" chương VI sự hình thành thế giới quan, Nxb Đại học Tổng hợp Lêningrat, 1974.
- Ch.L.Xmiếc Cốp, "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế giới quan Mác - Lênin", Tạp chí Giáo dục lý luận, 1985, số 3.
- V.I.LVa Xi Len Co, "Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận của việc xây dựng thế giới quan khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa", bản tự lược thuật, Luận án tiến sĩ triết học, 1975.
ở trong nước cũng có nhiều tác giả nghiên cứu như:
- Bùi Ngọc, "Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, 1981, số 8.
- Lê Xuân Vũ, "Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần của nhân dân ta", Tạp chí Cộng sản, 1986, số 6.
- Nguyễn Trọng Chuẩn, "Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học", Tạp chí Triết học 1988, số 3.
- Bùi ỉnh, "Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta", Luận án PTS Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1988.
- Trần Thước, "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt Nam", Luận án PTS Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1993.
- Trần Thanh Hà, "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng viên người dân tộc Khơme ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.
- Trần Viết Quân, "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2002.
Tất cả những tác giả trên đã đề cập đến:
- Khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan khoa học nói riêng, cấu trúc và chức năng của chúng.
- Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng trong quá trình xây dựng CNXH.
- Những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành thế giới quan duy vật biện chứng. Những nguyên tắc phương pháp luận chung trong việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho nhân dân trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
- Đưa một số giải pháp cụ thể và những quan điểm nhằm bồi dưỡng và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho một số đối tượng cụ thể ở những nước vốn lạc hậu về kinh tế - xã hội thực hiện quá độ lên CNXH.
Riêng vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay chưa ai bàn đến. Đồng thời, xuất phát từ vai trò quan trọng của lực lượng này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Vì vậy, tôi chọn đề tài: " Vấn đề giỏo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viờn cỏc trường đại học cao đẳng ở Hà Nội hiện nay " để làm luận văn tốt nghiệp.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Từ việc phân tích thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay, luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích vai trò của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên. Xác định những nhân tố tác động đến việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay.
- Làm rõ thực trạng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng trong các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Do khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên của các môn khoa học Mác - Lênin và các cơ quan chức năng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể: phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát hóa và điều tra xã hội học.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Nêu lên tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội và đưa ra một số giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần vào việc đưa ra những cơ sở khoa học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu làm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
Tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên Hà Nội hiện nay
1.1. thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với sinh viên hiện nay
1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng và vệc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
1.1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng
Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn có mối quan hệ hữu cơ với thế giới, con người luôn có nhu cầu tìm hiểu thế giới, những vấn đề đầu tiên mà họ quan tâm là "nguồn gốc và bản chất của thế giới", "vị trí và vai trò của con người trong thế giới ấy". Trả lời cho những vấn đề đó sẽ hình thành ở con người những quan điểm, quan niệm về thế giới, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan của con người.
Thế giới quan xuất hiện từ thời nguyên thủy nhưng phạm trù thế giới quan được xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVIII do nhà triết học Can tơ người Đức nêu ra. Vào thế kỷ XX, phạm trù thế giới quan được các nhà triết học Liên Xô và các nhà triết học các nước nghiên cứu và định nghĩa dưới nhiều cấp độ khác nhau. Ví dụ như: "Thế giới quan được hiểu là toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của một tập đoàn xã hội, của một giai cấp hay xã hội nói chung đối với thực tại" [55, tr.539]. Hay:
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể về thế giới, về những hiện tượng tự nhiên, xã hội và các quy luật phát triển của chúng, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trước thế giới. Nói một cách khác, thế giới quan phản ánh tồn tại vật chất và xã hội của con người [24, tr.10].
Akitốp lại cho rằng "Tổng hợp tất cả những quan niệm, chính kiến về thế giới, về cấu trúc và nguồn gốc của nó, ý nghĩa và giá trị của đời sống con người, lòng tin của con người trong hiện thực được gọi là thế giới quan" [1, tr.167].
Từ những quan niệm khác nhau về thế giới quan ở trên, ta có thể hiểu: thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể (một người hoặc một tập đoàn người, một giai cấp hay toàn xã hội) về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó. Trên cơ sở đó, thế giới quan định hướng, chỉ dẫn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người và là phương thức con người tự ý thức được về bản thân mình.
Như vậy, thế giới quan ra đời, hình thành, phát triển luôn luôn gắn với sự phát triển của thực tiễn xã hội và sự hiểu biết thế giới của con người. Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, thế giới quan được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song có ba hình thức cơ bản đó là: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Trong ba hình thức cơ bản của thế giới quan nói ở trên thì thế giới quan triết học là hình thức thế giới quan có trình độ phát triển cao hơn, sâu sắc hơn so với thế giới quan huyền thoại và tôn giáo. Ngay từ khi mới ra đời, triết học đã tồn tại như là một hệ thống những quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới ấy. Thực tiễn đã chứng minh rằng, chỉ có triết học mới có thể giải quyết được những vấn đề chung nhất của thế giới mà không một ngành khoa học cụ thể nào có thể làm được. Vì vậy, triết học bao giờ cũng đóng vai trò hạt nhân lý luận của một thế giới quan. Triết học là sự thể hiện cô đọng tập trung nhất thế giới quan của mỗi giai cấp, mỗi thời đại lịch sử nhất định. Nó thể hiện chiều sâu của tư tưởng, thể hiện trình độ cao của trí tuệ con người. Thế giới quan triết học luôn giữ vai trò chủ đạo định hướng các hành vi chính trị và đạo đức, lối sống của con người. Nó giúp cho con người biết nhận thức và hành động theo mục tiêu lý tưởng của mình.
Lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa hai đường lối triết học cơ bản, đó là triết học duy vật và triết học duy tâm và đó cũng là cuộc đấu tranh giữa hai loại hình thế giới quan: duy vật và duy tâm. Trong quá trình đấu tranh đó, thế giới quan duy vật đã từng bước phát triển tương ứng với trình độ phát triển tư duy của con người ở mỗi giai đoạn lịch sử. Từ thế giới quan duy vật biện chứng "thô sơ" thời cổ đại, thế giới quan duy vật siêu hình thời cận đại đến thế giới quan duy vật siêu hình cổ điển Đức đã phát triển đến một trình độ mới đó là thế giới quan duy vật biện chứng. Nhờ kế thừa những giá trị tinh hoa của triết học trong lịch sử, đặc biệt là kế thừa có phát triển sáng tạo hạt nhân hợp lý của triết học cổ điển Đức, Mác và Ăngghen đã sáng lập ra một hệ thống triết học mới khác về chất so với các triết học trước đó. Các triết học trước Mác chỉ nhằm mục đích là giải thích thế giới, còn triết học Mác là công cụ hữu hiệu để cải tạo thế giới hiện thực. "Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới" [33, tr.12].
Nhờ sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng khoa học, chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để, duy vật không chỉ trong tự nhiên mà cả trong xã hội. Nội dung của thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm việc giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và cách mạng trong thời đại chúng ta. Thế giới quan duy vật biện chứng vừa có tính cách mạng, vừa có tính khoa học. Bởi lẽ, sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng được xây dựng trên những tiền đề kinh tế - xã hội và tư tưởng văn hóa tiên tiến của nhân loại, mà trực tiếp nhất là dựa trên sự phản ánh khái quát đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc những tư liệu do khoa học và thực tiễn mang lại.
Thế giới quan duy vật biện chứng phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem đến một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ về con người, khẳng định con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Thế giới quan duy vật biện chứng đặc biệt đã khẳng định khả năng tự ý thức về vai trò và vị trí của con người trong hiện thực, khẳng định khả năng cải tạo tự nhiên và xã hội của con người. Do đó, thế giới quan duy vật biện chứng chính là vũ khí tinh thần sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội cộng sản văn minh, tiến bộ hơn chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích sự hình thành và bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng, chúng tôi đồng ý với quan niệm về thế giới quan duy vật biện chứng như sau: "Thế giới quan duy vật biện chứng là một hệ thống quan điểm hoàn chỉnh về thế giới trên cơ sở những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, cùng những định hướng giá trị của con người trong quan hệ với hiện thực dựa trên việc giải quyết một cách duy vật biện chứng vấn đề cơ bản của triết học" [59, tr.16].
Nhận thức khoa học không thể tự bằng lòng và chỉ dừng lại ở việc nêu ra định nghĩa khái quát về đối tượng mà còn cần phải làm sáng tỏ những nhân tố trong cấu trúc của nó. Cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng gồm ba yếu tố cơ bản đó là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng sống.
Tri thức khoa học: là sự hiểu biết sâu sắc của con người về thế giới, là kết quả của quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn đúng đắn của con người. Tri thức khoa học có nhiều loại khác nhau, nhưng trong nội dung tri thức khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng, tri thức triết học Mác - Lênin đóng vai trò nền tảng... Bởi lẽ, triết học Mác - Lênin là hệ thống tri thức khái quát nhất về thế giới hiện thực, là bức tranh khái quát về tự nhiên, xã hội và tư duy xác định một cách khoa học và chân thực vai trò, vị trí của con người đối với thế giới đó. Tuy vậy, không phải là khi có tri thức khoa học là đã có thế giới quan duy vật biện chứng. Tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan duy vật biện chứng khi nó chuyển thành niềm tin khoa học của con người. Chỉ khi đó thì tri thức mới trở nên bền vững và sâu sắc, mới có giá trị định hướng cho hoạt động của con người.
Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển trên cơ sở của tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực của con người.
Niềm tin khoa học là một nhân tố cơ bản, không thể thiếu trong cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng. Đó là sự hòa quyện một cách hữu cơ giữa tri thức, tình cảm và ý chí cá nhân trong mỗi con người. Niềm tin khoa học được hình thành trên cơ sở tri thức khoa học. Niềm tin khoa học có vai trò như một động lực, thúc đẩy con người vươn tới khát vọng nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực. Nếu con người làm một việc gì đó mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng, thì họ sẽ mất đi những rung động của ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình và sự cổ vũ cần thiết đối với hiệu quả công việc: Không có một niềm tin mãnh liệt vào tri thức thì một tri thức khoa học cũng sẽ không sản sinh ra cái gì vĩ đại cả. Hồ Chủ tịch vị lãnh tụ của dân tộc Việt Nam, Người là một điển hình cho niềm tin khoa học, chính nhờ có niềm tin ở chính nghĩa, ở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã cầm lái con thuyền cách mạng đưa dân tộc ta đến bến bờ độc lập, đánh Pháp, đuổi Mỹ làm nên chiến thắng như những huyền thoại của dân tộc Việt Nam.
Niềm tin chính là động lực mạnh mẽ, giúp cho mỗi con người có nghị lực phi thường, có thể vượt qua những phút giây hiểm nguy, giám hy sinh vì mục tiêu lý tưởng mà mình cho là cao cả.
Niềm tin khoa học chi phối mạnh mẽ nhận thức, tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và hành động cách mạng của mỗi con người. Nó đòi hỏi hành động của mỗi người cách mạng phải dựa trên cơ sở tri thức khoa học và tuân theo những giá trị và chuẩn mực đúng đắn của xã hội. Nếu người ta sống mà không có niềm tin khoa học, hoặc thiếu niềm tin khoa học thì dễ bị mất phương hướng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, có thể bị đẩy vào tình trạng bế tắc không có đường ra.
Lý tưởng cách mạng, là một trong những nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng. Lý tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách đặc biệt trong ý thức của con người dưới dạng hình tượng, kiểu mẫu hay chuẩn mực, mà con người cần phải phấn đấu đạt tới. Lý tưởng cách mạng đóng vai trò định hướng đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nó là nhân tố kích thích sự phấn đấu vươn lên làm chủ của con người trong tự nhiên, xã hội và cả bản thân. Lý tưởng đúng đắn, cao cả sẽ làm cho mỗi người hình thành niềm hy vọng lớn, góp phần làm cho họ có thái độ, lập trường sống đúng đắn, lao động, học tập và công tác tích cực, giúp cho họ vươn tới những giá trị cao đẹp; như lòng nhân ái, lòng vị tha và những phẩm chất chân, thiện, mỹ; giúp cho họ đấu tranh với cái ác, cái xấu, cái tiêu cực và lạc hậu trong xã hội và có thể sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cho lý tưởng cao đẹp đó.
Ba nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, đan xen nhau và thâm nhập vào nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Từ khi ra đời cho đến nay, thế giới quan duy vật biện chứng luôn có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Thế giới quan duy vật biện chứng và là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó góp phần rất quan trọng để giúp cho họ biết nhận thức và hành động đúng đắn trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, chống áp bức bóc lột và bất công vì hòa bình độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học: "Đó là một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản" [29, tr.50].
Vì vậy, mà từ khi thế giới quan duy vật biện chứng ra đời, đã được hàng triệu triệu người trên thế giới đón nhận, trong đó phải kể đến thế hệ thanh niên.
1.1.1.2. Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
"Thanh niên là những người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành" [58, tr.913] hay còn có định nghĩa khác "Thanh niên là những người trong độ tuổi từ 15 đến 24" [10, tr.111].
Lớp lớp thanh niên Việt Nam cũng đã từng đón nhận hệ thống lý luận của thế giới quan duy vật biện chứng một cách nhiệt tình và từ đó họ hình thành lý tưởng sống cao đẹp, họ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình, cả cuộc sống hạnh phúc của chính mình cho lý tưởng vì độc lập tự do của dân tộc ta như Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Lý Tự Trọng, Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi... trong các thời kỳ cách mạng của dân tộc ta.
Trong thế hệ thanh niên thì sinh viên là lực lượng tiêu biểu nhất, bởi vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin sinh viên có một vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Ăngghen viết: "Giai cấp vô sản lao động trí thức phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai, sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ với người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây" [37, tr.613]. ở đây, Ăngghen đã đánh giá rất cao vai trò của sinh viên với tư cách là đội dự bị của giai cấp vô sản lao động trí thức.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thanh niên sinh viên là cội nguồn sức sống của dân tộc, là người chủ tương lai của nước nhà. Lênin cho rằng sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản không thể thiếu sự tham gia tích cực, tự giác của thanh niên sinh viên. Với những tri thức khoa học và lòng nhiệt tình của tuổi trẻ cùng với thực tiễn đấu tranh chính trị, họ sẽ trở thành những người cộng sản giác ngộ, là người bạn đồng minh đáng tin cậy của giai cấp công nhân. Được giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng và được tập hợp thành tổ chức, nhờ đó, họ hoạt động trong phong trào cách mạng, họ gắn liền lý luận với thực tiễn.
ở nước ta các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng đánh giá rất cao vai trò của sinh viên. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VI năm 1999, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã gọi sinh viên "là bộ phận trí tuệ và ưu tú trong các thế hệ thanh niên, là nơi kết tinh nhiều tài năng sáng tạo, là nguồn lao động có học vấn cao, có chuyên sâu và đại bộ phận sinh viên sẽ trở thành người trí thức của đất nước" [23, tr.67]. Có thể khẳng định rằng, sinh viên Việt Nam là lực lượng ưu tú nhất trong thanh niên, có tri thức, được đào tạo cơ bản ở trình độ cao, có nhiệt tình của tuổi trẻ. Qua thực tế ta thấy, trong bất cứ một phong trào nào của thanh niên, sinh viên luôn luôn là lực lượng xung kích đi đầu. Sinh viên Việt Nam đã và sẽ là nguồn nhân lực vừa "hồng" vừa "chuyên" của nước ta. Vì vậy, họ sẽ là những người đóng vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thắng lợi, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa mà phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng hiện nay, với mục tiêu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước định hướng xã hội chủ nghĩa thì hơn bao giờ hết cần phải giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên.
Giáo dục là một quá trình hoạt động mang tính xã hội và mang tính phức hợp giữa các chủ thể dạy và học, là quá trình truyền đạt và tiếp nhận tri thức một cách có hệ thống với sự hỗ trợ của các phương tiện cần thiết. Nói cách khác giáo dục là quá trình hoạt động thống nhất hữu cơ giữa hai mặt dạy và học. Trong quá trình giáo dục, bao giờ cũng có một hệ thống cần phải giải quyết đó là: mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, nội dung, chương trình, giảng viên, động cơ dạy và học cùng các phương tiện giáo dục khác, nhằm đào tạo con người đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn lịch sử.
Giáo dục tuy không phải là sức mạnh vạn năng, không phải là nhân tố quyết định, song nó có tác dụng lớn lao đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, là con đường đặc trưng để loài người tồn tại và phát triển. Nếu không có giáo dục thì hệ thống giá trị chung của loài người như: các giá trị kinh tế, giá trị tư tưởng chính trị, đạo đức, truyền thống dân tộc... không được bảo tồn và phát triển, do đó cũng không tạo ra giá trị mới.
Bác Hồ cho rằng, không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến văn hóa, kinh tế... Nhiều phẩm chất trong đó có lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống vẻ vang, anh hùng bất khuất của dân tộc được hình thành qua giáo dục.
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục cũng mang tính giai cấp nhằm đào tạo ra lớp người phục vụ và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội và của chế độ xã hội mà họ xây dựng. Tính giai cấp được bộc lộ rất đa dạng trong nền giáo dục của mỗi quốc gia khác nhau, mỗi chế độ khác nhau.
Giáo dục theo quan điểm phong kiến nhằm đào tạo ra những con người trung hiếu. Giáo dục, theo quan điểm tư bản chủ nghĩa nhằm tạo ra con người thạo việc và tích cực, những nhà buôn, những nhà công nghiệp để phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản... Giáo dục theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm tạo ra những con người phát triển toàn diện. "Biết thấm nhuần tổng số những kiến thức của nhân loại mà chủ nghĩa cộng sản là kết quả bởi vì tương lai của loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc
- mục lục.doc