Trong Văn kiện Đại hội Đảng IX Đảng ta khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn tiếp tục là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam và là động lực tinh thần to lớn thúc đẩy sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bước vững chắc lên CNXH ở nước ta.
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, công tác tư tưỏng, lý luận được Đảng ta đặc biệt quan tâm và coi trọng, nhất là việc giáo dục chính trị, tư tưởng đối với thế hệ trẻ là sinh viên, học sinh. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên. Cải tiến việc giảng dạy và học tập các bộ môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề” [31, tr.110-111]. Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa IX) bàn về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới đã chỉ ra 6 nhiệm vụ trong đó có nhiệm vụ: “đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lý luận, coi trọng chất lượng và tính hiệu quả”, phải “đề cao và coi trọng giáo dục đạo đức công dân đặc biệt là trong các trường học, trong thanh thiếu niên” [32, tr.23].
Tuy nhiên, thực tế giáo dục chính trị, tư tưởng trong đó có giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng ở nước ta trong thời gian vừa qua, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Trong một bộ phận sinh viên còn tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, sống thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp. Điều đó đã nói lên một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay của giáo dục, như trong Văn kiện Hội nghị 6 (Khóa 9) đã chỉ ra: “Vấn đề bức xúc nhất trong giáo dục nước ta hiện nay là chất lượng giáo dục toàn diện, trước hết là chất lượng giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức, lối sống, đặc biệt ở bậc cao đẳng, đại học” [34, tr.40-41]. Tình hình giáo dục lý luận Mác - Lênin trong các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc cũng không nằm ngoài cái chung đó. Để giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc ngang tầm vị trí của nó thì vẫn còn đứng trước những hạn chế, khó khăn cần khắc phục đòi hỏi phải cùng với quá trình phát triển kinh tế -xã hội, nâng cao trình độ dân trí của các tỉnh biên giới, còn phải giải quyết những vấn đề về đội ngũ giảng viên, về đổi mới phương pháp dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin, về cơ sở vật chất, tài liệu, phương tiện cũng như cần phải có những hình thức, nội dung giáo dục lý luận Mác-Lênin phù hợp hơn. Vì thế việc nghiên cứu vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc là vấn đề cơ bản và cấp bách.
91 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1095 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên các trường Cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Văn kiện Đại hội Đảng IX Đảng ta khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn tiếp tục là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam và là động lực tinh thần to lớn thúc đẩy sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bước vững chắc lên CNXH ở nước ta.
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, công tác tư tưỏng, lý luận được Đảng ta đặc biệt quan tâm và coi trọng, nhất là việc giáo dục chính trị, tư tưởng đối với thế hệ trẻ là sinh viên, học sinh. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên. Cải tiến việc giảng dạy và học tập các bộ môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề” [31, tr.110-111]. Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa IX) bàn về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới đã chỉ ra 6 nhiệm vụ trong đó có nhiệm vụ: “đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lý luận, coi trọng chất lượng và tính hiệu quả”, phải “đề cao và coi trọng giáo dục đạo đức công dân đặc biệt là trong các trường học, trong thanh thiếu niên” [32, tr.23].
Tuy nhiên, thực tế giáo dục chính trị, tư tưởng trong đó có giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng ở nước ta trong thời gian vừa qua, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Trong một bộ phận sinh viên còn tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, sống thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp. Điều đó đã nói lên một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay của giáo dục, như trong Văn kiện Hội nghị 6 (Khóa 9) đã chỉ ra: “Vấn đề bức xúc nhất trong giáo dục nước ta hiện nay là chất lượng giáo dục toàn diện, trước hết là chất lượng giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức, lối sống, đặc biệt ở bậc cao đẳng, đại học” [34, tr.40-41]. Tình hình giáo dục lý luận Mác - Lênin trong các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc cũng không nằm ngoài cái chung đó. Để giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc ngang tầm vị trí của nó thì vẫn còn đứng trước những hạn chế, khó khăn cần khắc phục đòi hỏi phải cùng với quá trình phát triển kinh tế -xã hội, nâng cao trình độ dân trí của các tỉnh biên giới, còn phải giải quyết những vấn đề về đội ngũ giảng viên, về đổi mới phương pháp dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin, về cơ sở vật chất, tài liệu, phương tiện cũng như cần phải có những hình thức, nội dung giáo dục lý luận Mác-Lênin phù hợp hơn. Vì thế việc nghiên cứu vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc là vấn đề cơ bản và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học, cao đẳng đang được nhiều người quan tâm cho nên trong thời gian mấy năm gần đây xuất hiện nhiều bài báo, bài viết xung quanh vấn đề này ở nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau.
Đăng trên các tạp chí, có nhiều bài quan tâm đến vấn đề này như: Tác giả Nguyễn Lương Bằng: “Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường đại học hiện nay” Tạp chí Lý luận chính trị, số 7-2000; Tác giả Trần Tất Hùng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận Mác-Lênin” Tạp chí Giáo dục số 30 tháng 5-2002; Tác giả Lương Minh Cừ: “Một số ý kiến về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên hiện nay” Tạp chí Giáo dục số 60 tháng 6-2003; Tác giả Lương Gia Ban: Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý luận, Tạp chí Triết học, 1-2004; Tác giả Lê Bình: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị” Lý luận chính trị số 3-2004; “Về phương pháp so sánh trong dạy học các khoa học Mác-Lênin” của tác giả Nguyễn Văn Hiền, tạp chí Giáo dục số 110 tháng 3-2005…
Nghiên cứu ở trình độ luận văn thạc sĩ triết học có những luận văn: “Vai trò lý luận đối với qúa trình đổi mới xã hội ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ triết học của Phạm Đình Đạt 1993; “Giảng dạy triết học Mác-Lênin với việc nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường đại học”, luận văn thạc sĩ triết học của Hoàng Thúc Lân 2003; “Thông tin với hoạt động giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường đại học (Qua thực tế các trường đại học ở Hà Nội”, luận văn thạc sĩ triết học của Phan Thị Thanh Hải 2003.
Ngoài ra còn có những công trình tập thể khác: “Công tác tư tưởng và giảng dạy lý luận trong trường đại học và cao đẳng hiện nay” do Phạm Văn Năng chủ biên, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; “Quán triệt, vận dụng Nghị quyết Đại hội IX, nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2002 của Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ; “Một số ý kiến trao đổi về phương pháp giảng dạy các môn khoa học lý luận Mác-Lênin ở đại học và cao đẳng” của tập thể tác giả Lê Xuân Nam, Lê Thanh Sinh, Nguyễn Thanh, Lương Minh Cừ, Hoàng Trung (Đồng chủ biên), Nxb TP.Hồ Chí Minh 2002; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học” do Nguyễn Duy Bắc chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004…
Nhìn chung, các công trình trên đã có đóng góp trong việc nêu rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò và yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận Mác - Lênin trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt là vấn đề giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc cũng chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống dưới góc độ triết học. Vì vậy, chúng tôi chọn: " Vấn đề giỏo dục lý luận Mỏc - Lờnin cho sinh viờn cỏc trường cao đẳng sư phạm ở cỏc tỉnh biờn giới phớa Bắc Việt Nam hiện nay " làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
a. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra của giáo dục lý luận Mác-Lênin trong một số trường cao đẳng sư phạm biên giới phía Bắc nước ta hiện nay, luận văn đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc.
b. Nhiệm vụ
- Phân tích để làm rõ thực chất và biểu hiện đặc thù của giáo dục lý luận Mác-Lênin và tầm quan trọng của nó trong mục tiêu giáo dục toàn diện sinh viên các trường cao đẳng sư phạm nước ta hiện nay.
- Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra của giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên ở một số trường cao đẳng sư phạm biên giới phía Bắc.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta trong giai đoạn hiện nay.
c. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề giáo dục lý luận Mác-Lênin chủ yếu thông qua con đường dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin (Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học) ở một số trường cao đẳng sư phạm tỉnh biên giới phía Bắc nước ta hiện nay (Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và giáo dục lý luận Mác-Lênin. Các quan điểm của Đảng ta về giáo dục-đào tạo và giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, luận văn có tham khảo, kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, một số phương pháp nghiên cứu khoa học: phân tích-tổng hợp, lịch sử-lôgíc, thống kê, điều tra xã hội học cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đề tài góp phần vào việc khảo sát, phân tích thực trạng giáo dục lý luận Mác-Lênin trong một số trường cao đẳng sư phạm biên giới phía Bắc.
- Góp phần đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được làm tài liệu tham khảo cho các trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc nghiên cứu trong việc:
- Xây dựng tiêu chuẩn, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin ở các trường cao đẳng sư phạm các tỉnh biên giới phía Bắc
- Xây dựng kế hoạch thực hiện những hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho sinh viên ở nhà trường, xác định tiêu chuẩn đánh giá học sinh-sinh viên.
- Xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận Mác-Lênin phù hợp đối tượng sinh viên trường cao đẳng sư phạm ở các tỉnh biên giới phía Bắc.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho đội ngũ giáo viên giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin ở các trường cao đẳng sư phạm biên giới phía Bắc nghiên cứu trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên các trường cao đẳng sư phạm ở nước ta hiện nay
1.1. Một vài nét về giáo dục lý luận Mác-Lênin cho sinh viên ở nước ta hiện nay
1.1.1. Lý luận Mác-Lênin và những đặc trưng của nó
Để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người không ngừng tác động vào thế giới khách quan để cải tạo và chinh phục nó. Muốn làm được điều đó, con người phải hiểu biết, phải có tri thức về thế giới nhưng những tri thức đó không có sẵn trong con người, không được đem lại cho con người dưới dạng “bẩm sinh”. Muốn có tri thức con người phải tiến hành một hoạt động đặc biệt - hoạt động nhận thức - một hoạt động đặc trưng của loài người. Nhận thức được diễn ra không đơn giản thụ động, máy móc mà là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người một cách năng động, sáng tạo và biện chứng. Sở dĩ như vậy bởi vì sự xuất hiện và bản chất của nhận thức luôn gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Chính thông qua quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức của con người mới được hình thành và không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ tri thức kinh nghiệm đến tri thức lý luận.
Tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận là hai trình độ khác nhau của quá trình nhận thức, chúng thống nhất với nhau, tác động, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Trong cuộc sống, tri thức kinh nghiệm có vai trò rất to lớn, giúp con người điều chỉnh hành vi và có những quyết sách đúng đắn, phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng rẽ, về các mối liên hệ bên ngoài của sự vật, chưa nắm được cái tất yếu sâu sắc, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật hiện tượng. Chính vì vậy, không được xem nhẹ tri thức kinh nghiệm, nhưng càng không được tuyệt đối hoá vai trò của nó. Nhận thức của con người cần phải phát triển lên một trình độ cao hơn, sâu sắc, đầy đủ hơn, đó là trình độ lý luận.
Lý luận là phạm trù rộng lớn, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của tri thức loài người. Theo sự phát triển của lịch sử, có rất nhiều cách định nghĩa và khái niệm này ngày càng được hiểu một cách đầy đủ và phong phú hơn.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những kiến thức được khái quát và hệ thống hoá trong một lĩnh vực nào đó” [74, tr.544-545].
Từ điển triết học định nghĩa “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên và xã hội tích luỹ được trong quá trình”, là “hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức” [76, tr.526].
Từ điển triết học của nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva định nghĩa: “Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là toàn bộ những tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgic của các khái niệm cái lôgíc khách quan của các sự vật” [85, tr.342-343].
“Lý luận -theo Hồ Chí Minh - là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [55, tr.497]. Quan niệm này của Hồ Chí Minh đã góp phần làm sáng tỏ quan niệm triết học về lý luận, nêu ra nguồn gốc, cách thức, con đường hình thành lý luận.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận, nhưng đều thống nhất ở chỗ: Lý luận là sản phẩm của quá trình tư duy của con người, được hình thành trên cơ sở khái quát kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú đa dạng của con người; là tổng hợp các tri thức về tự nhiên, xã hội được tích luỹ trong quá trình lịch sử của con người. Xét về bản chất, lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong một lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan.
Lý luận Mác-Lênin là thuật ngữ chỉ học thuyết cách mạng do Mác-Ăngghen sáng lập và được Lênin kế thừa, phát triển một cách sáng tạo. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác-Lênin là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác-Lênin là sản phẩm tất yếu của những điều kiện kinh tế-xã hội TBCN giữa thế kỷ XIX, đồng thời là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
Thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác” không phải xuất hiện ngay từ đầu mà xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ XIX. Bản thân Ăngghen đã xác nhận “Nếu không có Mác thì lý luận thật khó mà được như ngày nay. Vì vậy, lý luận đó mang tên của Mác là điều chính đáng” [67, tr.428]. Nhận định trên của Ăngghen cho thấy thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác” và thuật ngữ “Lý luận Mác” có nội dung tương đồng nên thuật ngữ này thường được dùng như nhau.
Vào giữa những năm 20 của thế kỷ XX, thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin” xuất hiện ở Nga, I.V.Xtalin đã viết “chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản” là sự “phát triển chủ nghĩa Mác trong những điều kiện mới” [90, tr.6], là hình thức cao của chủ nghĩa Mác. Từ đó, thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin” đã được các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế thừa nhận.
ở Việt Nam, vào năm 1924 Hồ Chí Minh đã dùng thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác”: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được” [53, tr.465]. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”(1927), Hồ Chí Minh đã dùng thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin”: “Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” [54, tr.280]. Thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác” và thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin” được dùng ở nước ta từ đó đến nay.
Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp vô sản với tư cách là một giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất trong lịch sử, tất yếu phải có hệ tư tưởng của mình, phải trang bị cho mình vũ khí lý luận trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại. Như Lênin nói: “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [59, tr.32]. Hệ tư tưởng đó của giai cấp vô sản chính là lý luận Mác - Lênin.
Lý luận Mác-Lênin với ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học và CNXH khoa học là một học thuyết có hệ thống lý luận và phương pháp luận rất chặt chẽ. Những phát kiến của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin về quan điểm duy vật về lịch sử, lý luận về giá trị thặng dư, vai trò sứ mệnh của giai cấp vô sản là những phát kiến có ý nghĩa vạch thời đại mở ra con đường đi lên của các quốc gia dân tộc và của cả nhân loại. Những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng vô sản, của con đường xây dựng XHCN, được các ông đưa ra là những định hướng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng xây dựng CNXH ở các nước khác nhau trên thế giới. Lý luận Mác-Lênin là “cẩm nang” cho các Đảng cộng sản và những người cách mạng trong quá trình suy nghĩ và tìm tòi giải pháp để giải quyết các vấn đề lịch sử cụ thể mà cuộc đấu tranh cách mạng của mỗi nước và của thời đại đặt ra.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã kế thừa tất cả những giá trị tư tưởng và văn hoá của nhân loại đã có từ trước, là sự khái quát, đúc kết những kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Lý luận Mác-Lênin luôn luôn gắn liền với thực tiễn phong trào cách mạng, thực tiễn vận động của lịch sử, của sự phát triển khoa học kỹ thuật với cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận chống lại các học thuyết tư sản, chủ nghĩa cơ hội, xét lại, cải lương. Sức mạnh của lý luận Mác-Lênin chính là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Nó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng, vì bản chất là học thuyết về sự phát triển, của sự phát triển, bao hàm cả sự phát triển.
Trong thời đại ngày nay, lý luận Mác-Lênin vẫn tiếp tục thể hiện sức sống của nó trong tiến trình nhân loại xây dựng một thế giới hoà bình và tiến bộ. Với nước ta, trong văn kiện Đại hội Đảng IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [31, tr.83]. Lý luận Mác-Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục là “kim chỉ nam”, là động lực tinh thần thúc đẩy công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta tiến bước vững chắc lên CNXH.
Lý luận Mác - Lênin có những đặc trưng sau:
Một là, tính trừu tượng hoá và tính khái quát hoá cao
Trừu tượng hoá, khái quát hoá là hai quá trình có mối liên hệ chặt chẽ không thể tách rời nhau, chúng xâm nhập lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Thông qua các thao tác này của tư duy mà con người có được tri thức về mối liên hệ bản chất, tính quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Các hình thức thể hiện của lý luận nói chung, lý luận Mác-Lênin nói riêng như khái niệm, phạm trù, các nguyên lý... đều là sản phẩm của quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá cao của tư duy con người trong quá trình nhận thức thế giới.
Nếu tư duy kinh nghiệm nhờ quan sát trực tiếp mà rút ra kết luận, thì tư duy lý luận dựa trên tri thức đã có để tạo nên tri thức mới bằng con đường trừu tượng hoá, khái quát hoá. Để hình thành lý luận, tư duy khái quát hoá, trừu tượng hoá những tri thức kinh nghiệm, “lọc bỏ”, “cải tạo” những hiện tượng phản ánh xa rời bản chất để từ đó hình thành những khái niệm, phạm trù, các nguyên lý... Với sức mạnh của sự trừu tượng hoá, khái quát hoá, lý luận trên cơ sở nắm bắt được những mối liên hệ khách quan bản chất mà phát hiện những quy luật vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng, đem lại cho con người “hình ảnh chân thật của đối tượng” nhờ đó mà con người có thể cải tạo thế giới theo yêu cầu và mục đích của mình.
Mang đặc trưng này nên lý luận Mác-Lênin là hệ thống tri thức đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật của các mối liên hệ tất nhiên trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Đây là một hệ thống tri thức lý luận khoa học, đúng đắn cả trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống lý luận này trở thành kim chỉ nam cho con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Hai là, tính hệ thống, lôgic, chính xác và chặt chẽ
Lý luận là một hệ thống có mối liên hệ bên trong chặt chẽ. Mỗi khái niệm, phạm trù, nguyên lý phản ánh những khía cạnh khác nhau của sự vật hiện tượng nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, mang lại cho con người tri thức về sự vật hiện tượng trong tính chỉnh thể, toàn vẹn của nó, giúp con người có cái nhìn toàn diện, chính xác về sự vật hiện tượng. Đem lại cho con người một bức tranh chân thật về hiện thực khách quan, tránh mọi “ảo tưởng” mù quáng mê hoặc, xuyên tạc sự thật, gạt bỏ thần bí siêu tự nhiên. Do vậy, lý luận trở thành lý luận khoa học khi là một hệ thống mang tính chỉnh thể, toàn vẹn, thống nhất, với khả năng phản ánh chính xác sự vật hiện tượng như nó đã tồn tại, vận động và phát triển. Trên cơ sở đó có thể dự báo được xu hướng vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống lý luận điển hình về tính chính xác và lôgic chặt chẽ, có tác dụng tích cực đối với hoạt động thực tiễn của con người, làm cho “Trí tuệ” con người tìm thấy nhiều điều kỳ diệu trong tự nhiên và sẽ tìm thấy nhiều hơn nữa do đó làm tăng thêm quyền lực của mình đối với tự nhiên. Với đặc trưng này đòi hỏi việc nghiên cứu lý luận Mác-Lênin không được tuỳ tiện, hời hợt, đơn giản, không thể là sự tuỳ tiện chắp vá, cắt xén.
Ba là, tính gắn bó, liên hệ, thống nhất với thực tiễn
Thống nhất lý luận -thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận khoa học nói chung và của lý luận Mác-Lênin nói riêng. Thực tiễn -lý luận và lý luận - thực tiễn là những vòng khâu nối tiếp, vô tận trong sự phát triển không ngừng của cả lý luận và thực tiễn. Lý luận thuộc lĩnh vực hoạt động tinh thần còn thực tiễn thuộc hoạt động vật chất. Trong mối quan hệ này, theo tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, thực tiễn đóng vai trò quyết định. Lênin còn khẳng định: thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả tính hiện thực trực tiếp. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, lý luận có tồn tại, có sức sống hay không phụ thuộc vào mức độ phù hợp, vai trò định hướng, gợi mở, chỉ dẫn, giải quyết những vấn đề của đời sống thực tiễn.
Lý luận là sản phẩm của thực tiễn, nó gắn liền với thực tiễn nhưng lý luận một khi đã hình thành thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Lý luận vạch ra phương hướng cho thực tiễn, chỉ ra phương pháp hoạt động có hiệu quả nhất để đạt mục đích. Lý luận đem lại sức mạnh cho con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Nếu không có nhận thức đúng thì không thể có hành động đúng. Nhờ có lý luận, hành động của con người trở nên tự giác, tích cực chủ động và tránh được tự phát, mò mẫm.
Như vậy giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng. Chúng tác động, bổ sung làm phong phú lẫn nhau, là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của nhau. Hồ Chí Minh đã khẳng định “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” [55, tr.496]. Theo Hồ Chí Minh, lý luận sẽ là lý luận suông, lạc hậu, giản đơn, không có tính khoa học nếu xa rời thực tiễn. Thực tiễn sẽ trở thành mù quáng, tự phát nếu không có lý luận soi đường. Lý luận Mác-Lênin là sự khái quát thực tiễn cách mạng và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó chính là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
Bốn là, thống nhất giữa tính khoa học và tính Đảng
Nói tới tính Đảng là nói tới tính giai cấp, còn tính khoa học là sự phản ánh đúng thực tế khách quan, tôn trọng sự thật. Lý luận Mác-Lênin bao hàm trong nó đặc trưng thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học.
Lý luận Mác-Lênin là tư tưởng của giai cấp công nhân, phản ánh khách quan nhu cầu và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, phù hợp với nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới, cho nên lý luận đó đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính Đảng.
Trong lý luận Mác-Lênin, tính Đảng và tính khoa học có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tính Đảng càng cao thì tính khoa học càng sâu sắc. Lý luận Mác-Lênin có mục đích cao cả là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng XHCN nên nhiệm vụ quan trọng của nó là định hướng cho con người nhận thức đúng thế giới để có thể cải tạo được thế giới. Khi đó tính khoa học là tiền đề, cơ sở và tính Đảng giữ vai trò định hướng để loại trừ cái cũ, cái đã lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ, hợp quy luật. Lênin coi chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận vững như đá hoa cương, có “sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn những người xã hội chủ nghĩa của tất cả các nước theo lý luận đó, chính là ở chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội), với tinh thần cách mạng” [58, tr.421]. Do vậy, “Khoa học càng được tiến hành một cách dũng cảm và vô tư thì nó cũng phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của giai cấp công nhân”
Thực tiễn cho thấy việc xuyên tạc sự thật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUAN VAN.doc