Không phải ngẫu nhiên mà năm 2002 được Liên hợp quốc chọn là năm quốc tế về miền núi. Qua thực tế và qua hàng loạt Hội nghị quốc tế về môi trường từ năm 1972 đến nay, đặc biệt là Hội nghị Môi trường Quốc tế lần thứ nhất tại Stốckhôm năm 1972, Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất tại Rio De Janeiro năm 1992 và ở Johan Nesburg (Nam Phi) năm 2002, nhân loại đã phải chứng kiến biết bao thảm họa về môi trường do chính mình gây ra. Một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên các cuộc khủng hoảng sinh thái cục bộ và đang đe dọa một cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu là sự khai thác và sử dụng một cách vô ý thức, bừa bãi, lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đặc biệt là sự lãng quên các giá trị văn hóa sinh thái ở vùng rừng núi - nơi được coi là "lá phổi", là "mái nhà" của thế giới sống. Qua đó, có thể thấy rằng, tự nhiên nói chung, đặc biệt là những nơi khởi nguồn của những dòng sông, của những cánh rừng bạt ngàn, những dãy núi trùng điệp, những thảo nguyên mênh mông đang có những vấn đề gay cấn và nan giải, đòi hỏi phải có sự quan tâm nghiên cứu và giải quyết. Do đó, vấn đề môi trường sinh thái nhân văn, đặc biệt là vấn đề môi trường ở các vùng núi đã trở thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu, được cả nhân loại quan tâm vì sự sinh tồn của chính con người.
Vì sự tồn tại và phát triển của mình, con người phải quan hệ với tự nhiên và quan hệ với nhau; trong quá trình đó, những giá trị văn hóa sinh thái cũng dần dần được hình thành. Nghĩa là những giá trị văn hóa sinh thái gắn liền với mối quan hệ giữa con người và môi trường thiên nhiên. Vì vậy, trong quá trình bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa sinh thái, cần phải tính đến các yếu tố của môi trường tự nhiên và mối quan hệ, sự tác động giữa con người với tự nhiên mà kết quả của chúng được biểu hiện trong các giá trị văn hóa sinh thái. Do đó, vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay không chỉ đơn giản là vấn đề sinh học, sinh thái học thuần túy, mà thực chất nó còn là vấn đề văn hóa và lối sống của con người, vấn đề văn hóa sinh thái nhân văn.
Ở nước ta hiện nay, những vùng có điều kiện tự nhiên đa dạng như vùng rừng rậm, vùng núi cao, đều là những vùng sâu, vùng xa, trình độ phát triển về mọi mặt nói chung còn rất hạn chế so với mặt bằng chung của cả nước. Những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống được hình thành và phát triển từ nhiều đời nay của những khu vực này đang chịu sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, của khoa học, công nghệ hiện đại, của sự hội nhập,. đang có những biến đổi theo cả xu hướng tích cực lẫn tiêu cực, tuy nhiên theo xu hướng tiêu cực vẫn nhiều hơn. Điều này do trình độ nhận thức của người dân còn thấp, các điều kiện thiên nhiên phức tạp, xa xôi, cách trở, kinh tế - xã hội còn lạc hậu, của vùng này tạo nên. do vậy, việc bảo tồn và phát huy những mặt tích cực, còn phù hợp của các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở các vùng này đang được đặt ra hết sức cấp thiết nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của đất nước, mà trước tiên là phát triển bền vững các vùng đặc biệt này. Vấn đề này luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, và khẳng định: "tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái" [12, tr. 72]((*) Từ đây: - Số đầu là số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo.
- Số cuối là số trang của tài liệu tham khảo.*).
Khu vực miền núi Đông Bắc nước ta là một vùng có nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, do đó ở đây, trải qua nhiều thế hệ đã hình thành nên một vùng văn hóa đặc thù và đa dạng. Vùng này có vị trí địa lý và môi trường tự nhiên rất đặc biệt, là nơi khởi nguồn cung cấp nước cho các con sông chính của đồng bằng Bắc bộ. Nơi đây còn có rừng rậm, núi cao nên được coi là "lá phổi", là "mái nhà" của cả nước. Do đó, việc nghiên cứu và bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này là một đóng góp không nhỏ vào quá trình xây dựng và phát triển bền vững của đất nước. Trong khi đó, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế do các điều kiện kinh tế, xã hội và sự nhận thức của con người ở đây còn nhiều bất cập so với yêu cầu đặt ra. Vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này hiện nay đang là vấn đề cấp bách cần được nghiên cứu cả trên bình diện lý luận lẫn thực tiễn.
76 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1154 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không phải ngẫu nhiên mà năm 2002 được Liên hợp quốc chọn là năm quốc tế về miền núi. Qua thực tế và qua hàng loạt Hội nghị quốc tế về môi trường từ năm 1972 đến nay, đặc biệt là Hội nghị Môi trường Quốc tế lần thứ nhất tại Stốckhôm năm 1972, Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất tại Rio De Janeiro năm 1992 và ở Johan Nesburg (Nam Phi) năm 2002, nhân loại đã phải chứng kiến biết bao thảm họa về môi trường do chính mình gây ra. Một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên các cuộc khủng hoảng sinh thái cục bộ và đang đe dọa một cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu là sự khai thác và sử dụng một cách vô ý thức, bừa bãi, lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đặc biệt là sự lãng quên các giá trị văn hóa sinh thái ở vùng rừng núi - nơi được coi là "lá phổi", là "mái nhà" của thế giới sống. Qua đó, có thể thấy rằng, tự nhiên nói chung, đặc biệt là những nơi khởi nguồn của những dòng sông, của những cánh rừng bạt ngàn, những dãy núi trùng điệp, những thảo nguyên mênh mông đang có những vấn đề gay cấn và nan giải, đòi hỏi phải có sự quan tâm nghiên cứu và giải quyết. Do đó, vấn đề môi trường sinh thái nhân văn, đặc biệt là vấn đề môi trường ở các vùng núi đã trở thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu, được cả nhân loại quan tâm vì sự sinh tồn của chính con người.
Vì sự tồn tại và phát triển của mình, con người phải quan hệ với tự nhiên và quan hệ với nhau; trong quá trình đó, những giá trị văn hóa sinh thái cũng dần dần được hình thành. Nghĩa là những giá trị văn hóa sinh thái gắn liền với mối quan hệ giữa con người và môi trường thiên nhiên. Vì vậy, trong quá trình bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa sinh thái, cần phải tính đến các yếu tố của môi trường tự nhiên và mối quan hệ, sự tác động giữa con người với tự nhiên mà kết quả của chúng được biểu hiện trong các giá trị văn hóa sinh thái. Do đó, vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay không chỉ đơn giản là vấn đề sinh học, sinh thái học thuần túy, mà thực chất nó còn là vấn đề văn hóa và lối sống của con người, vấn đề văn hóa sinh thái nhân văn.
ở nước ta hiện nay, những vùng có điều kiện tự nhiên đa dạng như vùng rừng rậm, vùng núi cao, …đều là những vùng sâu, vùng xa, trình độ phát triển về mọi mặt nói chung còn rất hạn chế so với mặt bằng chung của cả nước. Những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống được hình thành và phát triển từ nhiều đời nay của những khu vực này đang chịu sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, của khoa học, công nghệ hiện đại, của sự hội nhập,... đang có những biến đổi theo cả xu hướng tích cực lẫn tiêu cực, tuy nhiên theo xu hướng tiêu cực vẫn nhiều hơn. Điều này do trình độ nhận thức của người dân còn thấp, các điều kiện thiên nhiên phức tạp, xa xôi, cách trở, kinh tế - xã hội còn lạc hậu,…của vùng này tạo nên. do vậy, việc bảo tồn và phát huy những mặt tích cực, còn phù hợp của các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở các vùng này đang được đặt ra hết sức cấp thiết nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của đất nước, mà trước tiên là phát triển bền vững các vùng đặc biệt này. Vấn đề này luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, và khẳng định: "tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái" [12, tr. 72](*) Từ đây: - Số đầu là số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo.
- Số cuối là số trang của tài liệu tham khảo.
.
Khu vực miền núi Đông Bắc nước ta là một vùng có nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, do đó ở đây, trải qua nhiều thế hệ đã hình thành nên một vùng văn hóa đặc thù và đa dạng. Vùng này có vị trí địa lý và môi trường tự nhiên rất đặc biệt, là nơi khởi nguồn cung cấp nước cho các con sông chính của đồng bằng Bắc bộ. Nơi đây còn có rừng rậm, núi cao nên được coi là "lá phổi", là "mái nhà" của cả nước. Do đó, việc nghiên cứu và bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này là một đóng góp không nhỏ vào quá trình xây dựng và phát triển bền vững của đất nước. Trong khi đó, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế do các điều kiện kinh tế, xã hội và sự nhận thức của con người ở đây còn nhiều bất cập so với yêu cầu đặt ra. Vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này hiện nay đang là vấn đề cấp bách cần được nghiên cứu cả trên bình diện lý luận lẫn thực tiễn.
Chính vì những lý do trên mà chúng tôi đã chọn đề tài " Vấn đề bảo tồn và phỏt huy cỏc giỏ trị văn húa sinh thỏi truyền thống ở vựng nỳi Đụng Bắc nước ta hiện nay " làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa luôn được Đảng ta chú ý ngang tầm với những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội và đã xác định: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định phải giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, chúng ta "hòa nhập" nhưng không "hòa tan". Và điều này đã được bàn đến rất cụ thể trong Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII. Mặt khác, trước nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm nặng nề môi trường sống hiện nay, cũng như nhu cầu cấp thiết của phát triển bền vững, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (15-11-2004). Với mục tiêu chung là tìm ra con đường để nước ta phát triển nhanh và phát triển bền vững, đã có nhiều công trình nghiên cứu đến những vấn đề văn hóa và vấn đề sinh thái ở nước ta hiện nay như:
Về văn hóa nói chung có các công trình: "Văn hóa và đổi mới" (Nxb Chính trị quốc gia, H, 1994) của cố vấn Phạm Văn Đồng, trong đó tác giả đã đề cập đến văn hóa một cách có hệ thống và nêu lên được mối quan hệ giữa văn hóa và đổi mới; "Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hóa Việt Nam" (GS.TS Đỗ Huy, PGS. Trường Lưu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989); "Chân - thiện - mỹ sự thống nhất và đa dạng trong văn hóa nghệ thuật" (Đỗ Huy, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994); "Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn - TS. Phạm Văn Đức - TS. Hồ Sĩ Quý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001);... Nhìn chung, các công trình này nghiên cứu văn hóa dưới góc độ lý luận chung và đã đạt được những thành công to lớn trong việc nghiên cứu khái niệm, cấu trúc, giá trị, vai trò, hình thức biểu hiện của văn hóa.
Dưới góc độ văn hóa các dân tộc ít người, có các công trình: "Văn hóa truyền thống Tày Nùng" (Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, TS. Cung Văn Lược, PGS. Vương Toàn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1993); "Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang" (Hùng Đình Quý, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Giang xuất bản, 1994); "Văn hóa dân tộc H mông Hà Giang" (PSG. Trường Lưu và Hùng Đình Quý, Sở Văn hóa - Thông tin - Thể thao Hà Giang xuất bản, 1996); "Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang" (Phạm Quang Hoan và Hùng Đình Quý, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1999); "Văn hóa các dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng" (Nông Quốc Chấn - Huỳnh Khái Vinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002),... Các công trình trên về cơ bản chỉ nghiên cứu văn hóa của một số dân tộc ít người tương đối điển hình trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta như: Tày, Nùng, Dao, Mông, Thái, Ê đê,... vẫn còn văn hóa của nhiều dân tộc thiểu số khác chưa được nghiên cứu và công bố rộng rãi.
Vấn đề sinh thái và môi trường đã có một số công trình đề cập đến như: "Môi trường sinh thái - Vấn đề và giải pháp" (Phạm Thị Ngọc Trầm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997); "Xã hội học môi trường" (Vũ Cao Đàm, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2002); cuốn "Sinh thái học và môi trường" (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002),... Nhìn chung, qua các công trình nêu trên, vấn đề sinh thái và môi trường đã được khai thác có hệ thống, nhất là những cảnh báo từ môi trường và các tương tác của nó đến sự phát triển đã được đề cập tương đối rõ nét.
Vấn đề văn hóa sinh thái mới chỉ được quan tâm trong thời gian gần đây, khi mà thực trạng môi trường sống đang có nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa, lối sống... Nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể ra một số công trình như: "Văn hóa sinh thái - nhân văn" (Trần Lê Bảo (chủ biên), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001); "Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên" (Nguyễn Viết Chức (chủ biên), Nxb Văn hóa - Thông tin, 2002); "Kỷ yếu diễn đàn phát triển bền vững miền núi Việt Nam" (ủy ban dân tộc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2003); "Một số vấn đề về bảo vệ môi trường vùng dân tộc và miền núi" (ủy ban dân tộc, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003); "Những giá trị văn hóa sinh thái nhân văn Hồ Chí Minh" (Phạm Thị Ngọc Trầm, Tạp chí Triết học, số 12, 2003); "Về cách tiếp cận triết học - xã hội đối với hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp" (Phạm Thị Ngọc Trầm, Tạp chí Triết học, số 6, 2004); ngoài ra cũng có một số luận án tiến sĩ triết học đã bước đầu đi vào nghiên cứu văn hóa sinh thái như: "Mối quan hệ giữa thích nghi và biến đổi môi trường tự nhiên của con người trong quá trình hoạt động sống" Luận án tiến sĩ của Đỗ Thị Ngọc Lan bảo vệ năm 1995, với nội dung chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa thích nghi và biến đổi môi trường tự nhiên của con người trong quá trình hoạt động sống, cụ thể là trong quá trình lao động, và sự phát triển lâu bền với mối quan hệ thích nghi và cải tạo môi trường tự nhiên; "Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền" Luận án tiến sĩ của Bùi Văn Dũng bảo vệ năm 1999, với nội dung chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, và đưa ra một số giải pháp để kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; luận án "Xây dựng ý thức sinh thái - yếu tố bảo đảm cho sự phát triển lâu bền" của Phạm Văn Boong bảo vệ năm 2001, với nội dung chủ yếu bàn về vai trò của ý thức sinh thái đối với sự phát triển lâu bền và vấn đề xây dựng ý thức sinh thái trong điều kiện phát triển mới của thời đại;... Nhìn chung, các công trình này mới chỉ đề cập đến văn hóa sinh thái ở dưới một số góc độ khác nhau, mức độ khái quát tổng thể về nội dung giá trị văn hóa sinh thái vẫn chưa rõ nét. Nó chỉ được đề cập đến như là một nội dung nằm trong toàn bộ vấn đề văn hóa hoặc sinh thái nói chung, và nằm rải rác trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau.
Về công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, đặc biệt là các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở trong cả nước nói chung cũng như ở vùng núi Đông Bắc nói riêng trong thời gian qua hầu như chưa được nghiên cứu đến mà mới chỉ được đề cập chung trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nói chung. ở đây có thể kể đến một số công trình đã công bố có liên quan tới vấn đề này như: "Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại" (Phạm Minh Hạc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996); "Sáng tạo và bảo tồn giá trị văn hóa, văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam" (Hội Văn học - Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, in tại trường Trung học Kỹ thuật In, Hà Nội, 1998); "Tính đa dạng của văn hóa Việt Nam: những tiếp cận về sự bảo tồn" (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội, 2002).
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Vì vậy, luận văn không trùng lặp với bất kỳ luận văn, công trình nào đã được công bố. Những tài liệu trên chỉ có tác dụng tham khảo cho việc nghiên cứu đề tài của tác giả luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta; chỉ ra sự cần thiết và một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy mặt tích cực, còn phù hợp của các giá trị đó trong điều kiện đổi mới hiện nay, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững của đất nước nói chung và của vùng đất đặc biệt này nói riêng.
- Với mục đích đó, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm "giá trị văn hóa sinh thái truyền thống" và xác định một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng núi Đông Bắc nước ta.
Thứ hai, làm rõ thực trạng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc: những kết quả đã đạt được và những vấn đề cần khắc phục, bổ sung.
Thứ ba, chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng. từ đó, bước đầu đề xuất một số phương hướng và giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
- Về giới hạn nghiên cứu đề tài:
Đây là một đề tài rộng có liên quan đến nhiều ngành khoa học. ở đây luận văn chỉ giải quyết vấn đề dưới góc độ chuyên ngành triết học. Trên cơ sở lý luận chung về văn hóa, chúng tôi xem xét vấn đề văn hóa sinh thái từ cách tiếp cận giá trị.
Khu vực miền núi Đông Bắc nước ta về mặt phân giới địa lý chỉ mang tính tương đối và ở khu vực này có rất nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, nên văn hóa sinh thái truyền thống của các dân tộc ở đây rất đa dạng, phong phú. Trong phạm vi của luận văn này chỉ có thể đi sâu vào nghiên cứu những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của một số dân tộc tiêu biểu như: Tày, Nùng, Dao, Mông vì đây là những dân tộc chiếm tỷ lệ cao trong tổng số dân cư của vùng, văn hóa sinh thái của họ hiện nay còn lưu giữ lại được nhiều giá trị truyền thống, họ lại đại diện cho các tộc người sinh sống ở cả ba vị trí thung lũng, lưng núi và trên núi cao, nên các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của họ mang tính đặc trưng chung cho giá trị văn hóa sinh thái truyền thống cả vùng núi Đông Bắc.
Do điều kiện về lịch sử và địa lý của nước ta và tính chất giao thoa mạnh mẽ của văn hóa, nên những đặc trưng về văn hóa sinh thái ở vùng này không độc lập, riêng rẽ với văn hóa sinh thái của các vùng khác mà chỉ mang tính tương đối.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu và trình bày của luận văn dựa trên cơ sở lý luận và các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề tài. Luận văn còn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng của một số công trình nghiên cứu khoa học đi trước như các bài viết, các luận án, luận văn, các tư liệu điều tra, khảo sát,... có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
Về mặt phương pháp, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, các phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, đối chiếu và so sánh, lôgic và lịch sử... với quan điểm phải có sự kết hợp, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu cũng như trong trình bày.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tương đối rõ ràng về "giá trị văn hóa sinh thái truyền thống" và bước đầu chỉ ra được một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta. Từ đó, luận văn góp phần nâng cao nhận thức trong việc giải quyết vấn đề "sinh thái" - một vấn đề cấp bách không chỉ đối với vùng núi Đông Bắc mà còn đối với cả nước nói riêng cũng như đối với toàn cầu nói chung.
- Thông qua việc phân tích thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc, luận văn đã chỉ ra được những nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng tới công việc này và chỉ ra được một số nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên.
- Luận văn bước đầu nêu lên một số phương hướng và giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc gắn với sự phát triển bền vững của vùng này cũng như của cả nước.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần củng cố nhận thức lý luận về văn hóa sinh thái, nhất là các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống. Từ đó, góp phần nâng cao sự nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, tạo cho con người có một thái độ đúng đắn, hợp quy luật trong quá trình khai thác và sử dụng tự nhiên. Luận văn còn có thể sử dụng vào việc nghiên cứu những vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở miền núi nước ta trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
Các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta
1.1. Giá trị văn hóa sinh thái - một số vấn đề lý luận
1.1.1. Khái niệm văn hóa sinh thái và những đặc trưng của giá trị văn hóa sinh thái
Văn hóa là một khái niệm rộng, nó được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Hiểu theo nghĩa khái quát:
Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động sống và làm nên lịch sử, được lưu giữ và truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhằm duy trì và phát triển cuộc sống của cộng đồng người ở các mức độ tổ chức xã hội khác nhau, hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp (Chân - Thiện - Mỹ) [44, tr. 14].
Còn sinh thái có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú, nơi sinh sống của các sinh vật từ bé nhất đến lớn nhất. Vì vậy, môi trường sinh thái chính là môi trường sống hay là cái nhà ở của sinh vật, bao gồm tất cả các điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể. Nó gồm có hai loại: môi trường sinh thái tự nhiên là môi trường của mối quan hệ giữa sinh thể với các điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái nhân văn hay môi trường tự nhiên - người hóa (môi trường của mối quan hệ giữa con người và xã hội với những điều kiện tự nhiên).
Từ đó, có thể hiểu:
Văn hóa sinh thái nói chung là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và biến đổi giới tự nhiên nhằm tạo ra cho mình một môi trường sống tốt đẹp hơn, trong lành hơn và hài hòa hơn với tự nhiên, hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp vì sự phát triển lâu bền của xã hội. Đó có thể là những giá trị vật chất - những tạo phẩm văn hóa như các công trình kiến trúc, các đền chùa, miếu mạo, các cảnh quan nhân tạo,... phù hợp và hài hòa với thiên nhiên, tôn tạo thêm vẻ đẹp vốn có của thiên nhiên,... là những giá trị tinh thần như tình yêu đối với thiên nhiên, đối với quê hương, đất nước và cả những giá trị về lối sống, nếp sống như những thói quen, tập quán, cách ứng xử tốt với thiên nhiên, tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên [2, tr. 196].
Với định nghĩa khái quát này, quan niệm về văn hóa sinh thái được hiểu:
Văn hóa sinh thái trước hết được con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và cải biến giới tự nhiên: con người muốn tồn tại và phát triển thì không còn cách nào khác là phải có sự liên hệ, tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải vật chất cần thiết đáp ứng những nhu cầu ăn, ở, mặc,... tối thiểu của mình. Chính trong quá trình tác động vào giới tự nhiên, con người đã không ngừng cải biến tự nhiên theo mục đích có lợi nhất cho mình. Từ đó, con người đã sáng tạo ra các dạng vật chất và tinh thần khác nhau. Các dạng này, một mặt nhằm đảm bảo sự sinh tồn và phát triển của loài người; mặt khác, nó còn thể hiện sự hiểu biết về tự nhiên, cách ứng xử với tự nhiên và trình độ chinh phục tự nhiên của con người ở từng thời kỳ nhất định. Chính mặt thứ hai này đã được thể hiện trong giá trị văn hóa sinh thái.
Những giá trị văn hóa sinh thái không phải là toàn bộ những gì con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và cải biến giới tự nhiên, mà nó chỉ là những cái góp phần tạo ra cho con người một môi trường sống tốt đẹp hơn, trong lành hơn và hài hòa hơn với tự nhiên được lưu giữ và được truyền lại qua các thế hệ cho đến ngày nay. Trong lịch sử đã từng xuất hiện những quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau trong cách ứng xử của con người đối với tự nhiên. Có quan niệm cho rằng, con người là "chúa tể của vạn vật" trong vũ trụ nên con người hoàn toàn có quyền khai thác tự nhiên một cách không có giới hạn, con người thống trị tự nhiên như một dân tộc này thống trị một dân tộc khác mà không cần tuân theo các quy luật của tự nhiên. Quan niệm này đã từng thống trị trong triết học phương Tây, điều này đã dẫn tới mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa con người và tự nhiên. Thực tế ở các nước phát triển về mặt công nghiệp phương Tây đã cho thấy đời sống kinh tế càng phát triển, của cải vật chất làm ra càng nhiều thì tự nhiên càng bị tàn phá, tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Do đó, xét trên bình diện những giá trị văn hóa sinh thái thì những gì mà họ đạt được không chỉ là giá trị mà còn có những phản giá trị. Sở dĩ có hiện tượng như vậy vì con người không hiểu được rằng: "Không nên quá tự hào về những lần thắng lợi của chúng ta đối với tự nhiên. Bởi vì, cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi là một lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta" [30, tr. 654]. Ngược lại, có quan niệm lại cho rằng, giữa con người và tự nhiên phải có mối quan hệ hòa hợp với nhau, con người phải coi mình cũng là một bộ phận của giới tự nhiên và giới tự nhiên chính là thân thể vô cơ của con người (C. Mác). Vì vậy:
Chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên. Chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác [30, tr. 655].
Điều này đã dẫn tới giữa con người và tự nhiên có sự gắn bó chặt chẽ, hài hòa, con người và tự nhiên cùng tồn tại và phát triển. Một khi con người sống hài hòa, thân thiện với môi trường tự nhiên, tuy vẫn khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và môi trường, nhưng không làm tổn thương nặng nề đến nó, thì những gì mà con người đạt được trong quá trình đó mới được coi là giá trị văn hóa sinh thái.
Bởi vậy, giá trị văn hóa sinh thái có thể được hiểu là tất cả những gì mà con người đạt được (cả vật chất lẫn tinh thần) trong quan hệ tác động lên tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu và phục vụ cho lợi ích của con người và xã hội nhưng không dẫn đến phá hoại sự cân bằng của hệ sinh thái, bảo đảm cùng tồn tại hài hòa, thân thiện giữa con người (xã hội) với tự nhiên.
Các giá trị văn hóa sinh thái được thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau từ các dạng vật thể như: kiến trúc, trang phục,... đến các dạng phi vật thể như: lối sống, phong tục, tập quán, nghệ thuật,... được hình thành trong quá trình tác động và cải biến tự nhiên của con người.
Bản chất của giá trị văn hóa sinh thái là phải hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp (Chân - Thiện - Mỹ) trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xã hội.
Các công trình nghiên cứu về giá trị của GS. Trần Văn Giàu và GS. Phạm Minh Hạc đều quan niệm: giá trị là tính có nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng quý, có ích của các đối tượng đối với các chủ thể. Như vậy, giá trị chỉ là những thuộc tính chính diện (mặt tích cực trong ý nghĩa) chứ không phải bất kỳ thuộc tính nào. Giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp. Bất kỳ sự vật nào cũng có thể được coi là "có giá trị" nếu nó được các thành viên xã hội thừa nhận và xem xét như một biểu tượng trong đời sống tinh thần của họ và cần đến nó như một nhu cầu thực thụ.
Từ quan niệm trên, có thể hiểu: giá trị văn hóa sinh thái chính là những cái tốt, cái đẹp, cái đúng, cái hợp lý mà con người sáng tạo ra và đã được thử thách trong thực tiễn cải tạo và hòa nhập với tự nhiên của mỗi cộng đồng người. Do đó, bản thân giá trị văn hóa sinh thái vừa mang tính khách quan, lại vừa mang tính chủ quan. Tính khách quan của giá trị văn hóa sinh thái được thể hiện rõ nhất ở tính hợp lý của nó được cả cộng đồng người thừa nhận và tuân theo trong quá trình tác động và biến đổi giới tự nhiên của mình, ở các giá trị phổ quát về cái đúng, cái tốt, cái đẹp đối với tự nhiên đã được kinh nghiệm toàn nhân loại chấp nhận. Song, các giá trị văn hóa sinh thái còn mang tính dân tộc, tính giai cấp và tính thời đại nên trong một phạm vi nhất định, giá trị văn hóa sinh thái còn mang tính chủ quan. Trong thực tế đã có những hiện tượng đối với dân tộc, giai cấp và ở một thời đại nhất định được coi là giá trị văn hóa sinh thái, thì vẫn những hiện tượng đó, nhưng đối với dân tộc, giai cấp và ở thời đại khác lại bị coi là phản giá trị văn hóa sinh thái, là cái cổ hủ, lạc hậu, lỗi thời cần xóa bỏ. Trong lịch sử loài người đã xảy ra rất nhiều hiện tượng như vậy, ví dụ như, tình trạng du canh du cư trong canh tác ruộng đất nông nghiệp. ở thời kỳ cổ đại do dân số còn ít, rừng nguyên sinh còn rất nhiều và do khoa học chưa phát triển nên hình thức du canh du cư còn mang tính hợp lý và phù hợp với thời đại lúc đó, vì đây là một biện ph