Luận văn Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hải Phòng với công tác tham gia xây dựng chính quyền

Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử Đảng ta. Đại hội mở đầu thế kỷ XXI, một chặng đường lịch sử mà trong đó đất nước ta sẽ hoàn thành công cuộc công nghiệp hoá, hịên đại hoá đất nước, trở thành một nước công nghiệp. Chủ đề của Đại hội mang ý nghĩa lịch sử này là “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc". Với chủ đề này, Đảng ta muốn khẳng định con đường phát triển của đất nước phải dựa vào sức mạnh toàn dân tộc. Với tư duy mới, chúng ta đã coi đại đoàn kết là "đường lối, chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội, trang 123 . Khẳng định vai trò động lực của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp lớn lao này, Đảng ta coi Mặt trận là "nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân" Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội, trang 130.

Trong lịch sử cách mạng nước ta, từ khi có Đảng đến nay không lúc nào vắng tổ chức Mặt trận. Mặt trận Việt Minh đã góp phần đưa cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi. Mặt trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thành công. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Miền Nam Việt Nam đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn Mặt trận là một tổ chức chính trị xã hội tập hợp quần chúng rộng rãi do Đảng lãnh đạo sẽ là một đảm bảo quan trọng để phát huy dân chủ, tránh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.

Là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, nơi phối hợp và thống nhất hành động của các tổ chức thành viên, động viên nhân dân góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Với vai trò và ý nghĩa đó, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hải Phòng thời gian qua đã chú trọng nâng tầm vị thế của Mặt trận trong hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác tham gia xây dựng chính quyền, coi đây là trọng tâm, là "xương sống"của công tác Mặt trận. Bằng các hoạt động như tổ chức hiệp thương bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp; tham gia xây dựng các dự án luật và phối hợp tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật; tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân; giám sát cán bộ công chức và Đảng viên ở khu dân cư Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thành phố Hải Phòng đã thực sự là người đại diện cho nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Tuy nhiên, trong thời gian qua tại thành phố Hải Phòng, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, công tác Mặt trận còn chưa được chú trọng đúng mức và thực sự có hiệu quả đúng với vị trí, vai trò của nó.

Là một cán bộ công tác tại Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hải Phòng tôi chọn đề tài "Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hải Phòng với công tác tham gia xây dựng chính quyền” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn góp phần phát huy tốt hơn nữa vai trò của Mặt trận trong xây dựng Đảng, chính quyền, tập hợp khối Đại đoàn kết toàn dân ở địa phương thông qua những thực trạng và phương hướng khắc phục.

Đề tài được hoàn thành với sự hướng dẫn và giúp đỡ của Thạc sỹ Vũ Thị Như Hoa, giảng viên khoa Chính trị học cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân và sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp

 

doc53 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1117 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hải Phòng với công tác tham gia xây dựng chính quyền, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu 1. Lý do chọn đề tài: Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử Đảng ta. Đại hội mở đầu thế kỷ XXI, một chặng đường lịch sử mà trong đó đất nước ta sẽ hoàn thành công cuộc công nghiệp hoá, hịên đại hoá đất nước, trở thành một nước công nghiệp. Chủ đề của Đại hội mang ý nghĩa lịch sử này là “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc". Với chủ đề này, Đảng ta muốn khẳng định con đường phát triển của đất nước phải dựa vào sức mạnh toàn dân tộc. Với tư duy mới, chúng ta đã coi đại đoàn kết là "đường lối, chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội, trang 123 . Khẳng định vai trò động lực của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp lớn lao này, Đảng ta coi Mặt trận là "nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân" Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội, trang 130 . Trong lịch sử cách mạng nước ta, từ khi có Đảng đến nay không lúc nào vắng tổ chức Mặt trận. Mặt trận Việt Minh đã góp phần đưa cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi. Mặt trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thành công. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Miền Nam Việt Nam đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn… Mặt trận là một tổ chức chính trị xã hội tập hợp quần chúng rộng rãi do Đảng lãnh đạo sẽ là một đảm bảo quan trọng để phát huy dân chủ, tránh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, nơi phối hợp và thống nhất hành động của các tổ chức thành viên, động viên nhân dân góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với vai trò và ý nghĩa đó, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hải Phòng thời gian qua đã chú trọng nâng tầm vị thế của Mặt trận trong hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác tham gia xây dựng chính quyền, coi đây là trọng tâm, là "xương sống"của công tác Mặt trận. Bằng các hoạt động như tổ chức hiệp thương bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp; tham gia xây dựng các dự án luật và phối hợp tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật; tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; giám sát việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân; giám sát cán bộ công chức và Đảng viên ở khu dân cư… Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thành phố Hải Phòng đã thực sự là người đại diện cho nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong thời gian qua tại thành phố Hải Phòng, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, công tác Mặt trận còn chưa được chú trọng đúng mức và thực sự có hiệu quả đúng với vị trí, vai trò của nó. Là một cán bộ công tác tại Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hải Phòng tôi chọn đề tài "Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hải Phòng với công tác tham gia xây dựng chính quyền” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn góp phần phát huy tốt hơn nữa vai trò của Mặt trận trong xây dựng Đảng, chính quyền, tập hợp khối Đại đoàn kết toàn dân ở địa phương thông qua những thực trạng và phương hướng khắc phục. Đề tài được hoàn thành với sự hướng dẫn và giúp đỡ của Thạc sỹ Vũ Thị Như Hoa, giảng viên khoa Chính trị học cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân và sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp 2. Mục đích, nhịêm vụ của đề tài: 2.1 Mục đích: Xác định công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền là một mảng hoạt động quan trọng trong công tác Mặt trận ở thành phố Hải Phòng. Mục đích của đề tài này là nêu bật vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, tầm quan trọng của công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền, đặc biệt trong thời điểm hịên nay; thực trạng và giải pháp… 2.2 Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới để làm rõ vai trò, vị trí của tổ chức Mặt trận trong hệ thống chính trị. Thứ hai, làm rõ thực trạng công tác Mặt trận nói chung, công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền trên địa bàn thành phố Hải Phòng thời gian qua. Đánh giá những mặt mạnh (thành tựu, kết quả), nguyên nhân tồn tại, bài học kinh nghiệm trong công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Thứ ba, những giải pháp khắc phục hạn chế và phát huy thế mạnh. 3. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu: Với mục đích khẳng định vị thế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, nêu bật tầm quan trọng của công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền. Tuy nhiên trong phạm vi của Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị, đề tài tập trung nghiên cứu công tác Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2000-2005. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả phải đứng vững trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời sử dụng các phương pháp liên ngành, chuyên ngành như: logic học, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp xử lý thông tin. 5. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài gồm ba chương. Chương I: Cơ sở lý luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta. I. Vị trí, vai trò và nguyên tắc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 1. Vị trí, vai trò. 2. Nguyên tắc. II. Chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. III. Mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các thành viên trong hệ thống chính trị nước ta. Chương II: Thực trạng công tác xây dựng chính quyền của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hải Phòng (từ năm 2000 - 2005). I. Khái quát đặc điểm, tình hình chung của thành phố Hải Phòng. 1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên. 2. Kinh tế - Xã hội - Văn hoá - Chính trị 3. An ninh quốc phòng. II. Thực trạng công tác tham gia xây dựng chính quyền của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hải Phòng (từ năm 2000-2005) 1. Tình hình hoạt động chung của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hải Phòng: bộ máy, cán bộ, hoạt động… 2. Thực trạng hoạt động tham gia xây dựng chính quyền III. Đánh giá chung: 1. Ưu điểm, nguyên nhân của ưu điểm. 2. Một số tồn tại và nguyên nhân của tồn tại. 3. Bài học kinh nghiệm. Chương III: Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của Mặt trận trong công tác tham gia xây dựng chính quyền ở thành phố Hải Phòng. I. Phương hướng. II. Giải pháp. 1. Tiếp tục củng cố và mở rộng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. 2. Tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tham gia cuộc vận động "Xây dựng, chỉnh đốn Đảng”và xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân. 3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận. 4. Củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các cấp. III. Một số đề xuất, kiến nghị. Chương I: Cơ sở lý luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta I. Vị trí, vai trò và nguyên tắc của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, là tổ chức liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng cộng sản Việt Nam, vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận. 1. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội: 1.1 Vị trí: Trong hệ thống chính trị của nước ta hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một thành viên: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đoàn kết và vận động nhân dân. Sự quy định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là xuất phát từ thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền hành thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Từ khi có Đảng là có Mặt trận, ngay sau khi nhân dân giành được chính quyền, Mặt trận đã trở thành thành viên của hệ thống chính trị. Trong vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động của từng thành viên trong hệ thống chính trị có khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân và cũng nhằm mục đích chung là: Phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Hiến pháp 1992 đã xác định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân…”Điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ:"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là Liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân" Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, trang 20 . Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (khoá VII) tháng 11 năm 1991 định hướng việc xây dựng Hiến pháp 1992 đã xác định rõ vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc với Nhà nước như sau: "Vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân ngày càng quan trọng, ngày càng được mở rộng với nền dân chủ ngày càng phát triển, với nền kinh tế nhiều thành phần, với nền văn hoá phát huy những giá trị nhân văn cao quý của dân tộc và của nhân loại. Nhà nước phải dựa vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, tôn trọng và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ Nhà nước". 1.2 Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta đã xác định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…", củng cố, tăng cường khối Đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Quan điểm này của Đảng ta xuất phát từ luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh: "Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng… Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng XHCN, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam" Hồ Chí Minh toàn tập - tập 42 . Trong lịch sử Đảng ta, khi nào Đảng có chính sách Mặt trận đúng đắn, coi trọng vai trò của Mặt trận, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận, tập hợp được ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân, thật lòng đoàn kết thì sẽ động viên được sức mạnh to lớn của toàn dân tộc, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới… Những lúc đó thế và lực của nhân dân ta sẽ được nhân lên gấp bội, cách mạng sẽ vượt qua được khó khăn, thử thách và ngày càng tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn. Trái lại, khi nào chúng ta xem nhẹ vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất, cường điệu đấu tranh giai cấp, phân biệt đối xử trong nội bộ nhân dân, thì lúc đó sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc bị suy yếu, cách mạng sẽ gặp khó khăn, có khi phải trả giá. Bài học đó trong quá khứ vẫn còn ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc đổi mới đất nước ngày nay. Có thể coi đó là một vấn đề có tính quy luật trong mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với sự nghiệp cách mạng của toàn dân ta, với khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Có thể nói, vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường và trong xã hội còn tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình đó có sự khác nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp xã hội, các tôn giáo… Những biến đổi về cơ cấu giai cấp và thành phần xã hội đang đặt ra cho công tác vận động quần chúng nói chung và công tác Mặt trận nói riêng những vấn đề mới. Nhu cầu liên minh, mở rộng việc tập hợp các lực lượng yêu nước đặt ra một cách bức bách. Mặt khác, các thế lực thù địch ở trong nước và quốc tế đang thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”và nhiều âm mưu chia rẽ khối Đại đoàn kết toàn dân tộc, hòng phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Thành công to lớn của Đảng ta trong việc lãnh đạo Mặt trận về thực chất và quan trọng hơn cả là đã giải quyết một cách đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ giưã dân tộc và giai cấp, giải quyết thành công vấn đề tập hợp rộng rãi lực lượng cách mạng và liên minh chính trị phù hợp với đặc điểm cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp và tương quan, so sánh lực lượng ở nước ta qua các thời kỳ cách mạng trước đây. Chủ tịch Hồ Chí minh đã đặt cơ sở, nền tảng cho quan điểm, đường lối của Đảng về công tác Mặt trận. Người nói “Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc thống nhất đúng đắn cho nên đã phát huy được truyền thống yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta". Trước yêu cầu, nhịêm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hịên đại hoá đất nước, một sự nghiệp khó khăn và gian khổ, càng đòi hỏi phải tăng cường khối Đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Do vậy, vai trò của Mặt trận và các đoàn thể thành viên ngày càng quan trọng. Nâng cao vai trò, vị trí của Mặt trận trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2. Nguyên tắc làm việc của Mặt trận: Mặt trận dân tộc thống nhất được tổ chức trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng về địa vị và độc lập về tổ chức. Quan hệ giữa các thành viên trong Mặt trận được thực hiện theo nguyên tắc: Hịêp thương dân chủ, hợp tác bình đẳng, đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau, phối hợp và thống nhất hành động. Thực hiện phối hợp và thống nhất hành động trên nguyên tắc hịêp thương dân chủ và bằng hiệp thương dân chủ tạo ra sự phối hợp và thống nhất hoạt động. Trong sinh hoạt Mặt trận, các thành viên tự do bày tỏ ý kiến của mình, cùng nhau bàn bạc, hịêp thương dân chủ để đạt tới sự nhất trí; không mệnh lệnh, áp đặt. Nếu có những ý kiến khác nhau trên những vấn đề cụ thể, thì cùng nhau trao đổi, thuyết phục, giúp đỡ nhau giải quyết. Trong hoạt động, các thành viên phải thoả thuận với nhau và chương trình hành động chung và có nghĩa vụ giúp đỡ nhau, phối hợp thống nhất hành động để thực hiện chương trình đã thoả thuận. II. Chức năng của Mặt trận: 1. Tập hợp khối Đại đoàn kết toàn dân tộc: Trong giai đoạn hịên nay, để thực hiện chức năng tập hợp đoàn kết nhân dân theo đường lối Đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải là Liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vừa mang tính chặt chẽ vì đó là một sự liên minh có tổ chức chứ không phải là một sự liên minh tạm thời, lỏng lẻo mang tính câu lạc bộ. Mặt khác, Mặt trận lại mang tính quần chúng rộng rãi, vì là sự liên hiệp tự nguyện của mọi người, mọi tổ chức có nguyện vọng tham gia Mặt trận nếu thừa nhận cương lĩnh và Điều lệ của Mặt trận. Tính tổ chức và tính quần chúng tự nguyện là một đặc trưng nổi trội, làm cho Mặt trận có điều kiện tập hợp rộng rãi các giai tầng trong xã hội, tổ chức và cá nhân, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ý thức hệ, giới tính, tuổi tác, quá khứ chính trị, sinh sống ở trong nước hay ngoài nước. Muốn góp phần xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc một cách có hiệu quả, thiết thực, Mặt trận đẩy mạnh việc đa dạng hoá các hình thức tập hợp các tầng lớp nhân dân thông qua các phong trào hành động yêu nước của nhân dân do Mặt trận đề xướng và thông qua các hình thức tổ chức phong phú theo ngành, theo giới, theo lứa tuổi, theo địa bàn cư trú. Bằng phong trào hành động, bằng tổ chức… để tập hợp các tầng lớp nhân dân là kinh nghiệm tốt đã được thực hiện ngay từ thời kỳ đấu tranh bí mật chuẩn bị giành chính quyền. Qua các phong trào, qua tổ chức, các tầng lớp nhân dân được giác ngộ về trách nhiệm và quyền lợi, ý thức được vị trí, vai trò của mình trong cộng đồng dân tộc, tự giác hành động vì mục tiêu chung của đất nước. Hoà mình vào phong trào hành động cách mạng, tham gia hoạt động trong các tổ chức sức mạnh của mỗi cá nhân không tồn tại riêng lẻ mà hoà quyện với tập thể, với cộng đồng nên được nhân lên, tạo thành sức mạnh to lớn của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Việt tập hợp các tầng lớp nhân dân, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc không chỉ được hiểu là những con người trong nhân dân mà rộng hơn là tập hợp những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để phản ánh với Đảng và Nhà nước, thực hiện vai trò cầu nối của Mặt trận nhằm tăng cường quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Có thể có người còn có lý do nào đó chưa tham gia phong trào, vào tổ chức, song không vì thế mà hạn chế việc tập hợp ý kiến của họ đối với Đảng và Nhà nước. Họ không đứng ngoài diện tập hợp của Mặt trận. Bằng việc tập hợp ý kiến đa dạng, nhiều chiều của các tầng lớp nhân dân, Mặt trận là nơi Đảng và Nhà nước bàn với dân về những vấn đề quốc kế dân sinh, nơi Đảng và Nhà nước nghe ý kiến trực tiếp của dân để xây dựng và hoàn thiện chủ trương, chính sách của mình. 2. Tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền: Muốn tăng cường Đại đoàn kết toàn dân tộc phải phát huy quyền làm chủ của dân. Muốn tăng cường đoàn kết trong xã hội phải có dân chủ và kỷ cương, có kỷ cương mới đảm bảo được dân chủ. Có dân chủ mới bảo đảm được đoàn kết. Trong chế độ ta, dân làm chủ bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước. Chính quyền của ta là chính quyền của dân, do dân và vì dân. Vì vậy xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh là nhằm phát huy quyền làm chủ của dân, để tăng cường khối Đại đoàn kết toàn dân tộc Mặt trận Tổ quốc tham gia xây dựng chính sách, pháp luật giám sát hoạt động của cán bộ chính quyền bằng cách phản ánh ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt là Mặt trận hiệp thương danh sách bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, tuyên truyền vận động nhân dân và giám sát thực hiện Luật bầu cử nhằm góp phần xây dựng chính quyền nhân dân trong sạch vững mạnh. Chính quyền nhân dân có trong sạch, vững mạnh, nhất là cán bộ chính quyền có thực sự là công bộc của dân, mới làm cho chủ trương chính sách pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, mới củng cố lòng tin của dân, mới đoàn kết, tập hợp được các tầng lớp nhân dân. Nếu bộ máy chính quyền phạm phải quan liêu, tham nhũng, xa dân, thực hiện chính sách pháp luật sai lệch… sẽ làm mất lòng tin của dân, thậm chí còn gây bất bình trong xã hội, đó sẽ là nguyên nhân tạo ra những kẽ hở nguy hiểm cho các hoạt động phá hoại khối Đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động, chia rẽ, gây mất ổn định xã hội, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Mặt trận tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền thông qua việc tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật liên quan đến lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cho những đường lối chính sách đó phản ánh và phù hợp với thực tế cuộc sống của nhân dân. Đại diện của Uỷ ban Mặt trận và các tổ chức thành viên của Mặt trận là các đoàn thể nhân dân còn tham gia các Uỷ ban, Hội đồng, ban điều hành một số dự án, chương trình kinh tế - xã hội có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân ở cơ sở. Nhân dân chỉ đạo tập hợp, đoàn kết xung quanh Đảng, Nhà nước khi mà quyền lợi hợp pháp và chính đáng của họ được tôn trọng, được bảo vệ. Lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước chính là cơ sở để thực hiện khối Đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận Tổ quốc đóng góp vào việc hoạch định và giám sát việc thực hiện đường lối, chính sách pháp luật, khắc phục những hạn chế nếu có, là cách thiết thực góp phần củng cố lòng tin nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Không thể chủ quan cho rằng, chủ trương, chính sách xây dựng một lần là đã có thể hoàn toàn đúng đắn. Cần qua kiểm nghiệm thực tế mà không ngừng làm cho chính sách pháp luật phù hợp với cuộc sống. Đó là quá trình Mặt trận phát huy vai trò đại diện cho tiếng nói của dân, tham gia hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. III. Mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các thành viên trong hệ thống chính trị nước ta. 1. Mối quan hệ giữa Đảng cộng sản Việt Nam với Mặt trận: Đảng vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi thành viên khác. Đại diện cấp uỷ Đảng tham gia Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc có trách nhiệm sinh hoạt đầy đủ, thực hiện hiệp thương dân chủ và thống nhất hành động. Cấp uỷ Đảng phải giáo dục đảng viên gương mẫu thực hiện chương trình hành động chung đã được các tổ chức thành viên thoả thuận và tích cực tham gia công tác Mặt trận ở khu dân cư. Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, là một thành viên của Mặt trận. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là một tất yếu, xét cả về phương diện thực tiễn lịch sử lẫn phương diện chính trị. ở mỗi thời kỳ lịch sử, tuỳ mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể, Đảng lập ra các hình thức tổ chức Mặt trận thích hợp. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, cách mạng XHCN cũng như trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn là người lãnh đạo Mặt trận; Đường lối của Đảng được thể hiện và quán triệt trong Cương lĩnh, chương trình hành động của Mặt trận. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo tốt công tác Mặt trận cũng chính là lãnh đạo tốt đốivới toàn xã hội và làm cho Đảng luôn gắn bó mật thiết với nhân dân. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đòi hỏi cấp thiết từ nhiều phía. Đảng lãnh đạo đối với Mặt trận được thể hiện ở những nội dung: Trước hết, đó là sự lãnh đạo về chính trị, Đảng đề ra đường lối đối nội, đối ngoại và phương hướng, nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ cách mạng. Căn cứ vào các chủ trương, đường lối của Đảng, Mặt trận đề ra Cương lĩnh và chương trình hành động cụ thể phù hợp với vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của mình. Đường lối chính trị đúng đắn của Đảng giúp cho hoạt động của Mặt trận không đi lệch hướng, mục tiêu chung của đất nước và là tiền đề quan trọng để các thành viên trong Mặt trận hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành động. Đảng lãnh đạo các cơ quan Nhà nước thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về Mặt trận dân tộc thống nhất và Đại đoàn kết toàn dân tộc… để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho Mặt trận hoạt động có hiệu quả. Đảng lãnh đạo về tổ chức và cán bộ của Mặt trận: Đảng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng những Đảng viên có phẩm chất, năng lực, uy tín giới thiệu đảm nhận chức vụ trong bộ máy của hệ thống Mặt trận thông qua hiệp thương dân chủ hoặc luân chuyển những cán bộ, đảng viên có năng lực, phẩm chất từ hệ thống Mặt trận sang công tác tại cơ quan Đảng, Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận thể hiện qua vai trò gương mẫu của cán bộ Đảng viên và các tổ chức cơ sở Đảng trong việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đảng kiểm tra hoạt động của Mặt trận trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhất là các chủ trương, chính sách về Đại đoàn kết toàn dân tộc về Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng lãnh đạo sự phối hợp, thống nhất hành động giữa các thành viên; sự phối hợp giữa Mặt trận với chính quyền, Đảng tôn trọng tính độc lập về tổ chức và hoạt động sáng tạo của Mặt trận; Đảng lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận đối với sự lãnh đạo của Đảng đối với cán bộ Đảng viên. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận là vấn đề có tính nguyên tắc, đảm bảo cho Mặt trận không ngừng được củng cố và mở rộng. Mặt trận có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt trận có trách nhiệm tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nướ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMAT TRAN TO CUOC Vu Anh Thu, B-46.doc
Tài liệu liên quan