Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ muôn đời sau noi theo. Tư tưởng của Người có vai trò, ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [21, tr. 20].
Với cách nhìn khách quan khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò, vị trí, khả năng của thanh niên (TN) đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Người cho rằng: “TN là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các TN” [49, tr.185]. Chính vì thế trước lúc đi xa Người không quên căn dặn Đảng ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [56, tr. 510]
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, để xứng đáng là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế hệ cha anh thì phẩm chất hàng đầu cần có ở TN là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng, ý chí kiên định đấu tranh cho thắng lợi của lý tưởng và đạo đức cách mạng để làm gương lôi cuốn quần chúng. Lý tưởng mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho TN là suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho đất nước hoàn toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới. Tuy nhiên, lý tưởng và ý chí cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền tảng đạo đức cách mạng. Thiếu đi nền tảng này, tuổi trẻ chưa trải qua dạn dày đấu tranh sẽ không đủ sức vượt qua những thăng trầm, khó khăn của hoàn cảnh để kiên trì phấn đấu đến cùng cho lý tưởng. Trong Di chúc, Người lưu ý “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”” [56, tr. 510].
Lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993) khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng TN, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ TN, công tác TN là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [18, tr.82].
Cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới và trong nước diễn biến rất phức tạp. Nhiều nhân tố tiêu cực từng ngày, từng giờ ảnh hưởng đến TN nói chung và sinh viên (SV) nói riêng. Trước hết là sự khủng hoảng niềm tin vào tương lai của CNXH sau sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Sau 20 năm đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có mặt trái. Đây là mảnh đất màu mỡ nảy sinh nhiều yếu tố tiêu cực. Các tác động của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà đạp lên những khuôn mẫu đạo đức cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân – kẻ thù nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng theo cách gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giờ đây có cơ hội trỗi dậy và phát triển. Chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta xác định giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ Nam cho hành động của Đảng đang bị các thế lực thù địch chống phá, công kích. Ngoài tư tưởng, chúng còn đẩy mạnh tiến công trên lĩnh vực văn hóa, đạo đức, lối sống mà đối tượng chủ yếu là SV – đội ngũ trí thức tương lai. Tất cả những điều đó đã tác động xấu đến việc hình thành và phát triển nhân cách của SV.
Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi chuông báo động toàn xã hội khi cho rằng tình trạng một bộ phận học sinh, SV suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước là điều “đặc biệt đáng lo ngại” [19, tr.24]. Trong xu thế chung của SV cả nước, một bộ phận không nhỏ SV các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh có những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và hành vi đạo đức như: xác định động cơ học tập không đúng. Mục đích của việc học không phải là nâng cao kiến thức mà nhằm kiếm điểm cao để có học bổng. Hiện tượng bỏ học không lý do, đi muộn, quay cóp trong thi cử đã trở nên khá phổ biến, cá biệt còn có một số SV tham gia đường dây thi thuê, thi hộ trong các mùa tuyển sinh đại học, cao đẳng. SV thờ ơ với các vấn đề chính trị, các hoạt động xã hội, còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng, ham ăn chơi đua đòi chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, xa rời đạo đức truyền thống, tiếp thu lối sống, văn hóa phương Tây không chọn lọc, quá coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần, sùng bái đồng tiền, có hành vi vi phạm pháp luật, sa vào các tệ nạn xã hội: trộm cướp, rượu chè, cờ bạc, ma túy, mại dâm
97 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 3696 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường Đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ muôn đời sau noi theo. Tư tưởng của Người có vai trò, ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [21, tr. 20].
Với cách nhìn khách quan khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò, vị trí, khả năng của thanh niên (TN) đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Người cho rằng: “TN là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các TN” [49, tr.185]. Chính vì thế trước lúc đi xa Người không quên căn dặn Đảng ta: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [56, tr. 510]
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, để xứng đáng là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế hệ cha anh thì phẩm chất hàng đầu cần có ở TN là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng, ý chí kiên định đấu tranh cho thắng lợi của lý tưởng và đạo đức cách mạng để làm gương lôi cuốn quần chúng. Lý tưởng mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho TN là suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho đất nước hoàn toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới. Tuy nhiên, lý tưởng và ý chí cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền tảng đạo đức cách mạng. Thiếu đi nền tảng này, tuổi trẻ chưa trải qua dạn dày đấu tranh sẽ không đủ sức vượt qua những thăng trầm, khó khăn của hoàn cảnh để kiên trì phấn đấu đến cùng cho lý tưởng. Trong Di chúc, Người lưu ý “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”” [56, tr. 510].
Lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993) khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng TN, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ TN, công tác TN là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [18, tr.82].
Cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới và trong nước diễn biến rất phức tạp. Nhiều nhân tố tiêu cực từng ngày, từng giờ ảnh hưởng đến TN nói chung và sinh viên (SV) nói riêng. Trước hết là sự khủng hoảng niềm tin vào tương lai của CNXH sau sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Sau 20 năm đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có mặt trái. Đây là mảnh đất màu mỡ nảy sinh nhiều yếu tố tiêu cực. Các tác động của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà đạp lên những khuôn mẫu đạo đức cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân – kẻ thù nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng theo cách gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giờ đây có cơ hội trỗi dậy và phát triển. Chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta xác định giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ Nam cho hành động của Đảng đang bị các thế lực thù địch chống phá, công kích. Ngoài tư tưởng, chúng còn đẩy mạnh tiến công trên lĩnh vực văn hóa, đạo đức, lối sống mà đối tượng chủ yếu là SV – đội ngũ trí thức tương lai. Tất cả những điều đó đã tác động xấu đến việc hình thành và phát triển nhân cách của SV.
Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi chuông báo động toàn xã hội khi cho rằng tình trạng một bộ phận học sinh, SV suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước là điều “đặc biệt đáng lo ngại” [19, tr.24]. Trong xu thế chung của SV cả nước, một bộ phận không nhỏ SV các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh có những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và hành vi đạo đức như: xác định động cơ học tập không đúng. Mục đích của việc học không phải là nâng cao kiến thức mà nhằm kiếm điểm cao để có học bổng. Hiện tượng bỏ học không lý do, đi muộn, quay cóp trong thi cử đã trở nên khá phổ biến, cá biệt còn có một số SV tham gia đường dây thi thuê, thi hộ trong các mùa tuyển sinh đại học, cao đẳng. SV thờ ơ với các vấn đề chính trị, các hoạt động xã hội, còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng, ham ăn chơi đua đòi chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, xa rời đạo đức truyền thống, tiếp thu lối sống, văn hóa phương Tây không chọn lọc, quá coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần, sùng bái đồng tiền, có hành vi vi phạm pháp luật, sa vào các tệ nạn xã hội: trộm cướp, rượu chè, cờ bạc, ma túy, mại dâm…
Trong khi đó, do yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thế hệ SV đã, đang và nhất định sẽ gánh vác những trọng trách to lớn nhưng vô cùng khó khăn phức tạp. Chính vì thế, tại Đại hội IX, Đảng ta lại nhấn mạnh: “Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [21, tr.126].
Như vậy, trước yêu cầu khách quan và cấp bách của công cuộc đổi mới, việc giáo dục đạo đức cách mạng cho TN, SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nội dung quan trọng hàng đầu trong việc rèn luyện nhân cách tuổi trẻ, là sự chuẩn bị cực kỳ hệ trọng giúp họ vào đời, lập thân, lập nghiệp.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên và vận dụng vào việc giáo dục sinh viên các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề TN và giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho TN, SV được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu theo những khía cạnh, cách tiếp cận khác nhau.
+ Nhóm tác giả đề cập đến vai trò TN và tầm quan trọng của công tác giáo dục TN:
- Lê Duẩn, Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1978.
- Đỗ Mười, Lý tưởng của Thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1995.
- Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Đoàn Nam Đàn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Phạm Đình Nghiệp, Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000.
- Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò Thanh niên trong cách mạng Việt Nam, Nxb Thanh niên, 2004 (in lần thứ hai).
- Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Nxb Giáo dục, 2004.
- Đặng Quang Thành, Xây dựng lối sống có văn hóa của Thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ, 2005, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 (Chương XV: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp giáo dục – đào tạo và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau).
- Văn Tùng, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999…
+ Nhóm các công trình nghiên cứu về đạo đức và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh:
- Nguyễn Trọng Chuẩn–Nguyễn Văn Phúc, Mấy vấn đề về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Vũ Khiêu, Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, 1974.
- Trần Hậu Kiêm – Đoàn Đức Hiếu, Hệ thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Tương Lai, Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới, Nxb Sự thật, 1983.
- Nguyễn Ngọc Long (chủ biên), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Trần Sỹ Phán, Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đinh Xuân Lâm – Bùi Đình Phong (1995), “Giá trị trường tồn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong lòng nhân loại tiến bộ”, Tạp chí Thông tin lý luận, (12).
- Lâm Quốc Tuấn – Trần Văn Toàn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức vừa “hồng” vừa “chuyên” cho thanh niên trí thức”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10).
- Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 (Chương XIII: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh).
- Nguyễn Văn Truy (chủ biên), Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993…
Những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý giúp chúng tôi tiếp thu tham khảo, làm định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình. Ở Thành Phố Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV hiện nay vẫn chưa có tác giả nào đề cập một cách cơ bản và có hệ thống dưới giác độ Hồ Chí Minh học. Vì vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với lòng mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; làm rõ lý luận và thực tiễn công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho đối tượng này theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, vai trò TN và việc giáo dục đạo đức, lối sống cho TN, SV.
- Phân tích thực trạng đạo đức, lối sống của SV và thực tiễn công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng 5 năm gần đây (2000 – 2005).
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu để tiếp tục tiến hành công việc giáo dục đạo đức, lối sống cho đối tượng này theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; đạo đức, lối sống SV và giáo dục đạo đức, lối sống cho SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; đạo đức, lối sống SV và vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho SV các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: luận văn được triển khai trên nền tảng các quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về đạo đức, TN và giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.
Phương pháp nghiên cứu: ngoài phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp lôgíc, phương pháp lịch sử – cụ thể, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học …
+ Đối với phương pháp khảo sát thực tiễn, chúng tôi đã tiếp xúc với Thành Đoàn, Thành Hội, Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng công tác chính trị, Đoàn trường, Hội SV, các giáo viên và SV để tìm hiểu tình hình đạo đức, lối sống SV và công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV.
+ Đối với phương pháp điều tra xã hội học, chúng tôi đã chọn mẫu điều tra là 6 trường đại học đóng trên địa bàn Thành phố như: Đại học Sư phạm, Đại học An Ninh, Đại học dân lập Hồng Bàng, Đại học Bách Khoa, Khoa Kinh Tế thuộc Đại học Quốc gia, Đại học Bán công Marketing. Mỗi trường 50 SV. Với 6 trường mà chúng tôi tiến hành khảo sát có những đặc điểm sau:
- Về loại hình trường và đối tượng: có cả công lập, dân lập, bán công, SV năm thứ nhất và năm cuối.
- Về ngành học có đủ các lĩnh vực khoa học khác nhau như: kinh tế, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cho TN.
- Nhận định đúng đắn, khách quan về đạo đức, lối sống của SV và công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV ở các trường đại học thuộc địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi cao trong giáo dục đạo đức, lối sống cho SV.
- Luận văn cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp các cấp Đoàn, Hội Liên hiệp TN, Hội SV, Phòng công tác chính trị thuộc các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hành động của mình. Ngoài ra, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và giảng dạy ở các lớp tập huấn nghiệp vụ công tác Đoàn, công tác SV.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 02 chương, 07 tiết.
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG,
LỐI SỐNG MỚI CHO THANH NIÊN
1.1. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
1.1.1. Đạo đức
Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris, nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức còn có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos, cũng có nghĩa là thói quen, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của khái niệm khi nói đến đạo đức là nói đến những thói quen, tập quán sinh hoạt và ứng xử của con người trong cộng đồng, trong xã hội.
Ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại, đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo đó, đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin, đạo đức xét đến cùng là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp cho xã hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [40, tr.371]. Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [41, tr. 214]. Đây là một quan niệm mang tính cách mạng và khoa học về đạo đức mà quan niệm của các tôn giáo và các nền đạo đức khác không thể đạt tới.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng…
Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức con người là ở hành động, ở việc làm, ở cách đối nhân xử thế. Đạo đức phải được xem xét trong 3 mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công việc. Trong 3 mối quan hệ đó, hoạt động của con người hình thành nên những hành vi, chuẩn mực đạo đức. Đó là việc mình có nghiêm khắc với chính bản thân hay không? Thái độ của mình đối với ông bà, bố mẹ, anh chị, em, đối với đồng chí, đồng đội, cấp trên, cấp dưới, đối với quần chúng nhân dân, đối với Đảng, với Nhà nước, đối với kẻ thù như thế nào? Mình có hết lòng, toàn tâm, toàn ý đối với công việc hay không? Điều đó xác định đạo đức của mỗi con người. Trong thư gửi đồng chí Hoàng Mai - Giám đốc Sở công an Khu XII, Người viết:
Tư cách người công an cách mạng là:
Đối với tự mình, phải cần, kiệm, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo [49, tr.406-407].
Đạo đức được xác định trong mối quan hệ với mình, với người và với công việc. Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức không phải chỉ là những lý tưởng cao xa mà còn là những thái độ, hành vi, việc làm cụ thể của mỗi người hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống sinh hoạt, trong học tập, trong lao động và trong chiến đấu. Mặt khác, ở đây Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ không có đạo đức đời thường tách rời với đạo đức cách mạng và cũng không thể có đạo đức cách mạng đứng ngoài với đạo đức đời thường. Vì vậy, không thể bào chữa cho khuyết điểm của bản thân mình, “cái đó là việc riêng của tôi, gia đình tôi không liên quan gì với cái chung”. Cái riêng mà phù hợp với cái chung (của Đảng, của cách mạng, của Tổ quốc, của nhân dân) thì đó là đạo đức. Cái riêng mà đi ngược với cái chung là chủ nghĩa cá nhân, là vi phạm đạo đức.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công, từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi phạm vi từ gia đình tới ngoài xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời sống xã hội và mỗi con người.
Hồ Chí Minh đã nêu những nội dung, những chuẩn mực chung có ý nghĩa cơ bản và có tính phổ cập đối với mọi người, mọi tầng lớp, đồng thời Người cũng chỉ rõ những chuẩn mực cụ thể đối với từng tầng lớp như: công nhân, nông dân, TN, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng, bộ đội, công an … Song đối tượng Người chú ý nhiều nhất là đạo đức của người cách mạng, người cán bộ, đảng viên.
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với Đảng ta dày công xây dựng, bồi đắp khác với đạo đức cũ về chất, ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức của chủ nghĩa Mác–Lênin. Đó là kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí Minh đã làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [50, tr.320-321]. Đạo đức cũ - đạo đức thực dân, phong kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm trói buộc con người, tàn phá con người. Còn đạo đức mới là vì nước, vì dân; là “dĩ công vi thượng”. Đây là đạo đức vĩ đại. Bởi lẽ, đạo đức đó “không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [49, tr.252].
Hồ Chí Minh xem đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người còn ví đạo đức đối với người cách mạng như là sức khỏe của người gánh nặng và đi xa. Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ cách mạng hoàn toàn không dễ dàng, đơn giản mà bao giờ cũng khó khăn, phức tạp. Thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đòi hỏi người cách mạng phải có quyết tâm phấn đấu thật cao, phải dám hy sinh, phải kiên trì bền bỉ “thắng không kiêu, bại không nản”. Vì thế “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang” [53, tr.283]. Người cán bộ đảng viên lại càng cần phải có đạo đức cách mạng. Vì “không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [49, tr.253]. Theo Người, lãnh đạo không phải là ra lệnh mà chủ yếu bằng lôi kéo, thuyết phục. Để lôi kéo thuyết phục con người, trước hết phải từ cái tâm, cái đức của con người, phải miệng nói, tay làm, phải đầu tàu gương mẫu. Người dạy muốn hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân thì cán bộ đảng viên phải mực thước, phải “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” [51, tr.568].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh” thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc và xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta. Người cũng nhắc lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Người đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có đầy đủ những phẩm chất cần có để tham gia và cống hiến nhiều nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH.
Hồ Chí Minh cho rằng lấy đạo đức làm gốc, không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng” và “chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia. Nói chuyện tại Đại hội SV Việt Nam lần thứ II, Người cho rằng: “TN phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người” [53, tr.172]. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được hiểu là toàn bộ những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng. Dựa vào những chuẩn mực đó, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không được làm và về nghĩa vụ phải làm.
1.1.2 Lối sống
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, lối sống là toàn bộ những hình thức hoạt động sống của con người trong một xã hội nhất định được xem xét thống nhất với các điều kiện kinh tế – xã hội nhất định [77, tr.742].
Giải thích phạm trù lối sống, học thuyết Mác đi từ phương thức hoạt động sản xuất của con người. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ” [11, tr.30].
Mác còn cho rằng để tồn tại trước hết con người phải giải quyết được những nhu cầu thiết yếu trước mắt như: ăn, mặc, ở, đi lại rồi mới có thể nghĩ đến chuyện làm văn thơ, làm triết học… Nghĩa là phải lao động kiếm sống. Lao động vốn là nhu cầu sống hàng đầu của con người. Mặt khác, lao động còn là nền tảng để phát triển toàn diện cá nhân con người.
Trong lao động sản xuất, con người thiết lập các mối quan hệ với tự nhiên và với xã hội. Chính trong quá trình đó con người biểu hiện bản thân mình, biểu hiện đời sống của mình. Như vậy, phương thức sản xuất không chỉ là một hình thức hoạt động sinh sống nhất định của con người mà còn là mặt cơ bản của lối sống, là điều kiện kinh tế – xã hội của lối sống. Tuy nhiên không thể đồng nhất phương thức sản xuất với lối sống, vì trong xã hội có giai cấp không thể có một lối sống cho tất cả mọi người và phạm vi của lối sống rộng hơn phạm vi của phương thức sản xuất. Ngoài hoạt động sản xuất, con người còn có nhiều hoạt động phong phú khác như: hoạt động chính trị, hoạt động tư tưởng và văn hóa, hoạt động bồi dưỡng sức khỏe và rèn luyện phẩm chất cá nhân. Phạm vi của lối sống có thể tương ứng với phạm vi của hình thái kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, hai khái niệm trên đây cũng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Hình thái kinh tế – xã hội gắn liền với hoạt động sản xuất vật chất của con người. Đó là một tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Ngược lại, lối sống phản ánh hoạt động của chủ thể bao gồm nhận thức, tình cảm, thái độ, động cơ trong mọi hoạt động của bản thân con người.
Bổ sung quan điểm của Mác, Hồ Chí Minh xem lối sống còn là hình thức biểu hiện của văn hóa – văn hóa đời sống. Người quan niệm văn hóa là bộ mặt tinh thần của xã hội và bộ mặt đó được thể hiện ra ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Điều này đã được Hồ Chí Minh chỉ ra khi nói về nội dung của đời sống mới, cũng như cách thức xây dựng đời sống mới trong một nước Việt Nam độc lập.
Theo Hồ Chí Minh, lối sống bộc lộ thông qua các hoạt động của con người trong cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Lối sống vừa có các giá trị của văn minh nhân loại vừa có các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Bên cạnh các giá trị vĩnh cửu, lối sống cũng chứa đựng các giá trị phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của từng thời kỳ nhất định; có các khía cạnh tiến bộ và cả những
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van1.doc