Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về dân vận - một bộ phận hết sức quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho Đảng và nhân dân các dân tộc ở nước ta.
Có thể nói, tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh không những chứa đựng tinh thần trọng dân, thương dân, hết lòng chăm lo lợi ích của nhân dân, nhận rõ sức mạnh của nhân dân, mà còn chỉ ra nội dung và phương thức vận động, tập hợp nhân dân.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn luôn xác định rõ vai trò, vị trí quan trọng của công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng. Bước vào thế kỷ XXI, đất nước đứng trước nhiều thời cơ và thách thức lớn; trong đó thách thức nổi bật là âm mưu của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Do đó, công tác dân vận lúc này cần phải được đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa với những nội dung phù hợp với tình hình mới của đất nước và thế giới nhằm phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Trong 20 năm đổi mới vừa qua (1986-2006), công tác dân vận do Đảng tổ chức, lãnh đạo đã tạo ra động lực lớn cho các phong trào thi đua yêu nước, góp phần không nhỏ làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chống lại có hiệu quả âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, tạo thế và lực cho đất nước; đồng thời góp phần mở rộng quyền dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác dân vận vẫn còn một số yếu kém cần được khắc phục. Việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhiều nơi còn làm hình thức, chiếu lệ. Đáng tiếc các cấp uỷ đảng, cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên ở một số nơi vẫn chưa nhận thức đúng vị trí và tầm quan trọng của công tác dân vận, thậm chí còn xem nhẹ công tác này, không coi đó là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Tình trạng một số cán bộ, đảng viên quan liêu, ngại đi cơ sở nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, thậm chí lợi dụng chức quyền, làm trái đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để tham nhũng, trục lợi, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân còn khá phổ biến. Tình trạng này là nguyên nhân chính gây ra các vụ khiếu kiện, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, yêu cầu tập hợp, đoàn kết, vận động nhân dân tiếp tục được đặt ra một cách bức thiết. Do vậy, công tác dân vận đã được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, đặc biệt Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá IX, có ba nghị quyết về công tác dân vận nhằm đáp ứng những yêu cầu bức thiết của nhân dân và huy động tối đa nội lực, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận và tích cực đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác vận động nhân dân là một đòi hỏi bức thiết hiện nay.
108 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình trong những năm đầu thế kỷ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về dân vận - một bộ phận hết sức quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho Đảng và nhân dân các dân tộc ở nước ta.
Có thể nói, tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh không những chứa đựng tinh thần trọng dân, thương dân, hết lòng chăm lo lợi ích của nhân dân, nhận rõ sức mạnh của nhân dân, mà còn chỉ ra nội dung và phương thức vận động, tập hợp nhân dân.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn luôn xác định rõ vai trò, vị trí quan trọng của công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng. Bước vào thế kỷ XXI, đất nước đứng trước nhiều thời cơ và thách thức lớn; trong đó thách thức nổi bật là âm mưu của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Do đó, công tác dân vận lúc này cần phải được đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa với những nội dung phù hợp với tình hình mới của đất nước và thế giới nhằm phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Trong 20 năm đổi mới vừa qua (1986-2006), công tác dân vận do Đảng tổ chức, lãnh đạo đã tạo ra động lực lớn cho các phong trào thi đua yêu nước, góp phần không nhỏ làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chống lại có hiệu quả âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, tạo thế và lực cho đất nước; đồng thời góp phần mở rộng quyền dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác dân vận vẫn còn một số yếu kém cần được khắc phục. Việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhiều nơi còn làm hình thức, chiếu lệ. Đáng tiếc các cấp uỷ đảng, cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên ở một số nơi vẫn chưa nhận thức đúng vị trí và tầm quan trọng của công tác dân vận, thậm chí còn xem nhẹ công tác này, không coi đó là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Tình trạng một số cán bộ, đảng viên quan liêu, ngại đi cơ sở nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, thậm chí lợi dụng chức quyền, làm trái đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để tham nhũng, trục lợi, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân còn khá phổ biến. Tình trạng này là nguyên nhân chính gây ra các vụ khiếu kiện, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, yêu cầu tập hợp, đoàn kết, vận động nhân dân tiếp tục được đặt ra một cách bức thiết. Do vậy, công tác dân vận đã được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, đặc biệt Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá IX, có ba nghị quyết về công tác dân vận nhằm đáp ứng những yêu cầu bức thiết của nhân dân và huy động tối đa nội lực, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận và tích cực đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác vận động nhân dân là một đòi hỏi bức thiết hiện nay.
Với những lý do đó, tôi chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình trong những năm đầu thế kỷ XXI" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận là một công việc cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu này được nhiều cơ quan, tổ chức và nhiều nhà khoa học quan tâm thực hiện và đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố. Sau đây là một số công trình tiêu biểu mà tôi đã tham khảo:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận của TS. Đỗ Quang Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Khái niệm, nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân vận của PGS.TS Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của TS. Thanh Tuyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Cán bộ dân vận thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, của TS. Trịnh Xuân Giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tác phẩm dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi toả sáng, soi đường cho công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới của TS. Nguyễn Văn Hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh với việc xây dựng kỹ năng, nghiệp vụ công tác dân vận của Lương Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác dân vận của hệ thống chính trị của Đinh Hồng Vân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Quyền hạn và lợi ích của dân trong bài báo dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của Nguyễn Thị Cận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Quan hệ giữa chính quyền nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của PGS.TS Trần Quang Nhiếp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động nông dân của Lê Hoàng Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; GS. Văn Tạo: Học tập tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh, Tạp chí Dân vận, số 5-2000; PGS.TS Nguyễn Tri Thư: Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề trong công tác vận động quần chúng, Tạp chí Dân vận, số 1+2, 2000; PGS.TS Hoàng Chí Bảo: Hồ Chí Minh với quan điểm thực tiễn và phương pháp khoa học về dân vận, Tạp chí Dân vận, số 10-2000; TS. Phạm Văn Khánh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh nhân dân và công tác dân vận, Tạp chí Dân vận, số 10-2003; PGS.PTS Đức Vượng: Đầu xuân suy ngẫm về dân vận trong sự nghiệp đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Dân vận, số 1+2, 1999; PGS.TS Bùi Đình Phong: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vào việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 9-2003; GS.TS Mạch Quang Thắng: Dân vận - vấn đề luôn luôn mới (qua nghiên cứu tác phẩm "Dân vận" của Hồ Chí Minh), Tạp chí Lý luận chính trị, 8-2006.
Ngoài ra, rất nhiều bài viết, luận văn, cuốn sách mà nội dung đề cập đến công tác dân vận cũng đã được công bố, như: Chính quyền và nhiệm vụ dân vận của Nguyễn Khánh, Tạp chí Cộng sản, số 1-1995; Lại bàn về dân vận của GS. Đặng Nguyên Anh, Tạp chí Dân vận, số 1-2003; "Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công" của Phạm Thế Duyệt, Tạp chí Dân vận, số 10-2002; Công tác dân vận là một bộ phận quan trọng của công tác cách mạng của Phan Diễn, Tạp chí Dân vận, số 11-2000; Cơ quan nhà nước làm công tác dân vận như thế nào của Nguyễn Khánh, Tạp chí Dân vận, số 8-2000; Dân vận - một nhiệm vụ quan trọng của chính quyền của Nguyễn Khánh, Tạp chí Cộng sản, số 8-1996; Công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1996), Luận văn thạc sĩ Lịch sử của Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2002.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân nêu trên đã làm sáng tỏ lý luận và một số nội dung cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Tuy nhiên, những công trình này là những tài liệu quý báu để tôi tham khảo, kế thừa nhằm nghiên cứu, trình bày một cách tương đối hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và vận dụng tư tưởng đó vào việc đánh giá thực trạng công tác dân vận trong những năm đầu thế kỷ XXI của tỉnh Quảng Bình; trên cơ sở đó xác định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác nông vận của tỉnh này trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng, nêu ra phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác nông vận hiện nay ở tỉnh Quảng Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Phân tích cơ sở hình thành và nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận.
- Phân tích thực trạng công tác nông vận trong những năm đầu thế kỷ XXI của tỉnh Quảng Bình, từ đó rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của thực trạng trên.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và đánh giá thực trạng công tác nông vận, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác nông vận trong những năm đầu thế kỷ XXI ở tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và việc quán triệt, vận dụng tư tưởng đó trong vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu quá trình hình thành và nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận; nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đó trong công tác nông vận những năm đầu thế kỷ XXI ở tỉnh Quảng Bình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận.
- Phương pháp luận của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin.
- Về phương pháp cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ yếu, ngoài ra còn sử dụng nhiều phương pháp khác như thống kê, so sánh...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, luận văn làm rõ thực trạng công tác vận động nông dân hiện nay ở tỉnh Quảng Bình, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về công tác này.
- Luận văn mạnh dạn nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công tác nông vận trong giai đoạn hiện nay ở tỉnh Quảng Bình.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ tính cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận. Tính cách mạng và tính khoa học của tư tưởng này không chỉ có ý nghĩa và giá trị to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, mà cả trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy công tác dân vận và làm công tác dân vận, nhất là làm công tác dân vận đối với nông dân.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn có 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
tư tưởng hồ chí minh về dân vận
1.1. quan niệm về dân, dân chủ, dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1.1.1. Quan niệm về dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người suốt đời đấu tranh đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc nô lệ thành dân tộc tự do, đưa người dân Việt Nam từ thân phận người dân thuộc địa lên địa vị người làm chủ đất nước; đồng thời Người cũng suốt đời phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Khái niệm "dân" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu và phát triển những quan điểm tiến bộ về dân trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, lịch sử tư tưởng phương Đông, phương Tây và khái niệm quần chúng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã rút ra một hệ thống các quan niệm về dân. Cho dù xét theo cách tiếp cận nào thì quan niệm của Hồ Chí Minh về dân Việt Nam có thể khái quát trên các nội dung sau:
Dân là những người chung một nước, chung một cộng đồng, chung một lãnh thổ thống nhất, là đồng bào, là "con Rồng cháu Tiên", là "con Hồng cháu Lạc", là anh em ruột thịt, là các tầng lớp, các đoàn thể, là những người cùng giai cấp, là những người yêu nước, là lực lượng cách mạng…
Hồ Chí Minh mở rộng nội hàm khái niệm “dân” đến tất cả những ai thừa nhận mình là “Con dân đất Việt”. Người thường nói đến “Con Rồng cháu Tiên”, “đồng bào”, gốc tích Việt Nam, “Hồng Bàng là tổ tiên ta”, “người chung một nước”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, quý, tiện”. Dân là toàn bộ đồng bào trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài.
Dân là “toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo” [26, tr.8].
Dân ở đây trừ bọn phản bội, làm tay sai cho đế quốc thực dân đi ngược lại quyền lợi, nguyện vọng của toàn dân, dân tộc. Nói đến dân cũng là nói đến tuyệt đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động khác. Với quan niệm đó, Người cho rằng giai cấp tư sản dân tộc - những người có lòng yêu nước, cũng là dân; họ cũng có đóng góp nhất định trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh phân tích một cách sâu sắc và khoa học lực lượng quần chúng ở nước ta và chỉ rõ: “Nhân dân là: bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, và tư sản dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng, các giai cấp ấy đoàn kết lại, bầu ra chính phủ của mình” [49, tr.214]. Quan niệm về dân như vậy đã tạo ra một sự thuyết phục mạnh mẽ để tập hợp các lực lượng tiến bộ xã hội thành một mặt trận rộng rãi, làm nên thắng lợi của cách mạng.
1.1.2. Quan niệm về dân chủ
Từ quan niệm về dân, Hồ Chí Minh đi đến quan niệm mới về dân chủ. Bằng những mệnh đề giản dị, hàm súc, ngắn gọn mà đầy đủ ý nghĩa, Hồ Chí Minh khái quát bằng cách riêng của mình những giá trị văn hoá dân chủ nhân loại từ cổ đại đến hiện đại mà lại rất Việt Nam - cụ thể và thiết thực nên ai đọc cũng nhận thức được ngay. Người viết: “Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ” [49, tr.368]; “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [48, tr.515]; “Bây giờ chúng ta là dân chủ. Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ” [50, tr.375]; “ Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ ” [49, tr.452]; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ” [52, tr.251]. “Nhân dân là người chủ nắm chính quyền, nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy thế là dân chủ” [49, tr.218-219].
Có thể coi quan niệm trên đây là quan niệm chính thức của Hồ Chí Minh về dân chủ và đó là quan niệm ngắn gọn nhất, phản ánh đúng thực chất và nội dung quan niệm của Người về dân chủ.
Cũng có thể thấy quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ còn thể hiện nội dung căn bản nhất của loài người về khái niệm dân chủ. Người viết:
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [47, tr.698].
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ, vấn đề nhất quán và sáng tỏ nhất là sự khẳng định ngay chế độ dân chủ của nước ta phải thể hiện “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “quyền hành”, “trách nhiệm, lực lượng” là “của dân”, “đều ở nơi dân”. Quan niệm đó cũng chỉ ra phương thức tổ chức, vận hành của xã hội dân chủ là chế độ đại diện, uỷ quyền, trong đó chính quyền và đoàn thể “do dân cử ra và do dân tổ chức nên”.
Tóm lại, quan niệm dân chủ ở nước ta được Hồ Chí Minh chỉ ra là: dân là chủ và dân làm chủ; bản chất của vấn đề dân chủ là quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, địa vị của dân là cao nhất, dân là chủ thể của mọi quyền lực. Có thể nói toàn bộ tư tưởng chủ đạo về dân chủ của Hồ Chí Minh nằm trong chữ "Dân".
1.1.3. Quan niệm về dân vận
Dân vận là một hoạt động vận động, giác ngộ quần chúng nhân dân làm cho dân hiểu, dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân quyết định trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cách mạng do Đảng ta lãnh đạo.
Hồ Chí Minh thường dùng thuật ngữ “Công tác quần chúng” và “dân vận” để chỉ một lĩnh vực công tác của Đảng. Vấn đề dân vận có nhiều khái niệm khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có khái niệm nào xúc tích, dễ hiểu, lại độc đáo như khái niệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài “Dân vận”.
Người viết:
Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho.
Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân.
Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng [47, tr.698-699].
Như vậy, công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời; phải làm cho người dân hiểu rõ chủ trương, chính sách và việc thực hiện chủ trương, chính sách sẽ đưa lại lợi ích cho nhân dân và do nhân dân thực hiện, không ai làm thay dân được; phải sâu sát nhân dân, sâu sát cơ sở, bàn bạc với dân, với cơ sở về kế hoạch thực hiện chủ trương, chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh của từng địa phương, từng cơ sở, phù hợp với khả năng của nhân dân và phải hướng dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách; trong và sau khi thực hiện cần phải theo dõi, đôn đốc kiểm tra, rút kinh nghiệm để kịp thời bổ sung, uốn nắn những thiếu sót, lệch lạc, sai lầm trong chủ trương, chính sách, trong tổ chức thực hiện, đồng thời để khen thưởng và phê bình.
1.2. Cơ sở và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
1.2.1. Cơ sở hình thành
Cơ sở lí luận:
Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng dân vận, hình thành và phát triển có nguồn gốc từ nhiều yếu tố, trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.2.1.1. Tư tưởng và văn hoá truyền thông Việt Nam trong đó chủ nghĩa yêu nước giữ vị trí hàng đầu
Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy tinh thần “trọng dân”, “yêu dân”, “dựa vào dân” của ông cha ta trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Lý Thường Kiệt có tác dụng “Dân vận” to lớn trong đấu tranh giữ nước và dựng nước. Bản Tuyên ngôn đã động viên toàn dân chống quân Tống xâm lược. Từ phòng tuyến Như Nguyệt đã vọng lên lời thơ “Thần diệu” thôi thúc lòng người đứng lên giữ nước:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" [3, tr.65].
Tổng kết các bài học lớn của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên- Mông, Trần Quốc Tuấn nhận thấy rằng nguyên nhân lớn nhất của chiến thắng là “Vua tôi đồng tâm, anh em hoà thuận, cả nước góp sức”, và ông căn dặn: "Phải khoan thử sức dân để làm kế bền gốc sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”. Những lời tâm huyết đó đã thúc giục lòng người đứng lên giết giặc lập công.
Lê Lợi, Nguyễn Trãi bằng chiến lược đánh vào lòng người đã động viên toàn quân, toàn dân trên tư tưởng "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", "chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân".
Tổng kết chiến thắng quân Minh, Nguyễn Trãi nhấn mạnh nguyên nhân thắng lợi là gắn bó với nhân dân, và vận động, giáo dục, phát huy sức mạnh của nhân dân:
"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào" [3, tr.78].
Như vậy, để tập hợp lực lượng, các chính quyền phong kiến đã biết phát huy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, đứng dưới ngọn cờ cứu nước. Trước hoạ ngoại xâm, cứu nước là để cứu dân. Kẻ ngoại xâm “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” [3, tr.76], nên cứu nước và giành lại nền độc lập cho đất nước là để cứu dân. Sau khi thắng lợi, các triều đại phong kiến Việt Nam đều có ý định thực hiện "kế sâu rễ, bền gốc là khoan thử sức dân".
Đến đầu thế kỷ XX, các nhà yêu nước tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh vượt qua hệ tư tưởng phong kiến, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện một bước tiến về chất trong lịch sử tư tưởng dân tộc nói chung và trong vấn đề vận động quần chúng nói riêng. Tuy nhiên, các nhà yêu nước nổi tiếng này chưa có phương pháp đánh giá và công tác vận động nhân dân một cách khoa học, nên phải chịu “trăm thất bại” mà không một thành công.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống “yêu nước, trọng dân” của ông cha trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, do đó đã đưa công tác dân vận lên thành một khoa học.
1.2.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận tư tưởng chủ yếu của sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, trong đó có tư tưởng dân vận
Hồ Chí Minh là nhà yêu nước Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Người coi chủ nghĩa Mác - Lênin không những là cái “cẩm nang thần kỳ", mà còn là "kim chỉ nam" và "là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới mục đích cuối cùng", đó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là đến với tri thức tiên tiến của thời đại, là tiếp thu sức mạnh và giá trị tinh thần của nhân loại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ các đảng cộng sản đều phải làm công tác vận động nhân dân. Đó là một công tác lâu dài và phải kiên trì thực hiện.
Giai cấp công nhân phải làm công tác dân vận để giành lấy sự đồng tình, sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh cách mạng của mình; và phải nhận thức rằng, mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau phải có những hình thức, nội dung công tác dân vận khác nhau.
Nghiên cứu lịch sử đấu tranh giai cấp ở Pháp năm 1848, C. Mác và Ph. Ăngghen viết trong lời nói đầu tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ 1848 đến 1850” rằng:
Đã qua rồi, thời kỳ những cuộc đột kích, thời kỳ những cuộc cách mạng do những nhóm thiểu số tự giác cầm đầu những quần chúng không tự giác tiến hành. ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo hoàn toàn chế dộ xã hội, thì bản thân quần chúng phải tự mình tham gia vào công cuộc cải tạo ấy, phải tự mình hiểu rõ vì sao phải tiến hành đấu tranh, vì sao mình phải đổ máu và hy sinh tính mạng [42, tr.775].
Như vậy, theo C.Mác và Ph. Ăngghen, muốn thắng lợi, các cuộc cách mạng xã hội không phải do những cá nhân, những nhóm người nhỏ bé cầm đầu, những quần chúng không tự giác tiến hành, mà phải do các chính đảng có lý luận tiên phong của các giai cấp lãnh đạo; các đảng đó phải biết thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng dám xả thân đấu tranh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng sức mạnh của quần chúng nhân dân là vô địch; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tuy nhiên, quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình khi họ được tổ chức lại:
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” [41, tr.615].
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định rằng:
1) Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo; 2) Càng có đông đảo quần chúng được thu hút tự phát vào cuộc đấu tranh, tạo thành cơ sở cho phong trào và tham gia phong trào, thì càng cấp thiết phải có một tổ chức như thế và tổ chức ấy lại càng phải vững chắc (nếu không thì bọn mị dân sẽ dễ lôi cuốn được những tầng lớp lạc hậu trong quần chúng); một tổ chức như thế thì chủ yếu phải gồm những người lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp của mình [35, tr.158-159].
Vì vậy, V.I.Lênin nhấn mạnh "hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên!" [35, tr.162].
Muốn có sức mạnh phải thống nhất ý chí, phải đoàn kết, phải có tổ chức. Vì thế trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” [41, tr.646]. Vận dụng tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen vào thời đại của mình - thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, Lênin kêu gọi mở rộng khối đại đoàn kết của giai cấp công nhân với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Về phương hướng công tác dân vận, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ cần phải dùng phương pháp nêu gương và giúp đỡ; trong công tác dân vận thì những tấm gương, những mô hình thực tiễn cụ thể có tác dụng cổ vũ, động viên, hướng dẫn quần chúng nhân dân rất to lớn; đối với quần chúng nhân dân không được dùng mệnh lệnh áp đặt ý chí chủ quan của cá nhân lãnh đạo đối với họ.
V. I. Lênin rất coi trọng công tác thuyết phục, giáo dục và nêu gương đối với quần chúng nhân dân. Người đề ra nhiệm vụ hàng đầu cho các đảng cộng sản là phải “thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình” [37, tr.208]. Nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ giành được chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội là quản lý, nhưng “Chúng ta phải suy nghĩ kỹ rằng muốn quản lý được tốt, thì ngoài cái tài biết thuyết phục, biết chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn cần phải biết tổ chức t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van1.doc