Từkhi đất nước chuyển sang cơchếthịtrường theo định hướng xã hội
chủnghĩa, nền kinh tếnước ta có nhiều khởi sắc, thu nhập quốc dân mỗi năm
một tăng cao, thu nhập bình quân đầu người mỗi năm một gia tăng, đồng thời
nền kinh tếcũng hoạt động sôi động và khốc liệt hơn. Do đó để đứng vững
trong nền kinh tếmang đầy tính cạnh tranh khốc liệt này là một điều hoàn
toàn không hề đơn giản đối với một đơn vịkinh doanh, đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp đã quen với sựbao cấp của Nhà nước.
82 trang |
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1033 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tốt nghiệp - Một sốgiải pháp nhằm nâng cao hiệu quảhoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (prosimex) – bộthương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, thu nhập quốc dân mỗi năm
một tăng cao, thu nhập bình quân đầu người mỗi năm một gia tăng, đồng thời
nền kinh tế cũng hoạt động sôi động và khốc liệt hơn. Do đó để đứng vững
trong nền kinh tế mang đầy tính cạnh tranh khốc liệt này là một điều hoàn
toàn không hề đơn giản đối với một đơn vị kinh doanh, đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp đã quen với sự bao cấp của Nhà nước. Trước tình hình đó,
nhiều doanh nghiệp đã không trụ nổi và đã bị phá sản. Nhưng bên cạnh đó
vẫn có không ít các doanh nghiệp không chỉ đứng vững trong thị trường mà
còn đưa ra được những biện pháp hữu hiệu làm tăng doanh thu hàng năm cho
doanh nghiệp, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên, góp phần thực
hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, thúc đẩy sự tăng
trưởng của nước nhà. Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu
(PROSIMEX) – Bộ Thương mại là một trong các doanh nghiệp đó. Đây là
doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh xuất
nhập khẩu. Trong những năm qua Công ty đã luôn phát triển và tạo uy tín tốt
với các bạn hàng trong và ngoài nước, và nhập khẩu đã góp phần không nhỏ
vào sự thành công này của Công ty. Doanh thu bán hàng nhập khẩu hàng năm
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của toàn Công ty (70%) do đó nhập
khẩu là một lĩnh vực thực sự quan trọng của toàn Công ty.
Để đánh giá một cách chính xác tình hình và vai trò của hoạt động nhập
khẩu của Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu em xin chọn đề tài:
"Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập
khẩu hàng hoá tại Công ty Sản xuất Kinh doanh xuất nhập khẩu
(PROSIMEX) – Bộ Thương mại" làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của
mình.
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hà, người trực
tiếp hướng dẫn em trong quá trình thực tập. Em cũng xin cảm ơn các cô chú
trong Công ty Prosimex, những người đã giúp đỡ em rất nhiều trong thời gian
thực tập tại Công ty. Do hạn chế về khả năng bản thân và thời gian nghiên
cứu nên chuyên đề này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự chỉ bảo góp ý và giúp đỡ của các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn
để đề tài này được hoàn thiện hơn nữa.
Hà nội ngày 31-5-2003
Sinh viên
Chu Huy Phương
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ SỞ VỀ HIỆU QUẢ KINH
DOANH NHẬP KHẨU.
I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.1. Khái niệm.
Nhập khẩu là khâu cơ bản của hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu là
hoạt động kinh doanh buôn bán diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Nhập khẩu
không chỉ là hoạt động buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ
buôn bán trong một nền kinh tế có tổ chức bên trong và bên ngoài. Nhập khẩu
là thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia với nền kinh
tế thế giới, đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay xu hướng liên kết toàn
cầu và khu vực làm cho mức độ ảnh hưởng, tác động của từng quốc gia đối
với nhau và của từng khu vực kinh tế thế giới ngày một tăng.
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia, vì vậy
nó phức tạp hơn mua bán trong nước: Mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn;
đồng tiền thanh toán là ngoại tệ, thường là ngoại tệ mạnh; hàng hoá phải
chuyển qua biên giới, cửa khẩu của quốc gia khác; hoạt động buôn bán phải
tuân theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như địa phương.
Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là có được hiệu quả cao từ việc nhập
khẩu vật tư hàng hoá... phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng và nâng
cao đời sống trong nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển liên tục, nâng cao
năng suất lao động, bảo vệ các ngành sản xuất ở trong nước, giải quyết sự
khan hiếm ở thị trường nội địa. Mặt khác thông qua thị trường nhập khẩu đảm
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
bảo sự phát triển ổn định những ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả
năng sản xuất trong nước chưa đảm bảo nguyên liệu cho chúng, tạo những
năng lực mới cho sản xuất, khai thác thế mạnh của quốc gia mình, kết hợp hài
hoà có hiệu quả nhập khẩu và cán cân thanh toán.
1.2. Đặc điểm.
Nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia trên thế giới. Hoạt
động buôn bán phát triển theo những tập quán thông lệ quốc tế, giao dịch
buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau.
Thương mại quốc tế có quan hệ trực tiếp đến quan hệ chính trị các nước
nhập khẩu và các nước xuất khẩu, vì vậy hoạt động nhập khẩu là cơ hội để
doanh nghiệp của các nước khác nhau có mối quan hệ làm ăn lâu dài, nhập
khẩu là hoạt động lưu thông hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia. Vì vậy nó
thường xuyên bị chi phối bởi các chính sách luật pháp của mỗi quốc gia. Nhà
nước quản lý hoạt động nhập khẩu thông qua các công cụ như: Chính sách
thuế, hạn ngạch, phụ thu,... và các văn bản pháp luật, các quy định danh mục
hàng hoá được phép nhập khẩu.
2. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu
tác động trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.
Nhập khẩu là một nghiệp vụ của hoạt động ngoại thương. Nó là việc
mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước
hoặc tái sản xuất trong nước. Nhập khẩu thể hiện mối liên hệ không thể thiếu
giữa các nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không thể sản xuất
được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế,
nghĩa là nhập khẩu về những hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không có
lợi bằng nhập khẩu.
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
Trong điều kiện kinh tế nước ta, vai trò quan trọng của nhập khẩu được
thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH.
- Bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát
triển kinh tế cân đối ổn định.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Ở
đây nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu
dùng, vừa phải đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người
lao động.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động
này được thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng hoá xuất
khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hàng hoá xuất khẩu Việt Nam ra nước
ngoài, đặc biệt là các nước nhập khẩu.
- Nhập khẩu tạo thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ, làm đa dạng
hoá mặt hàng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng, quy cách, cho phép thoả mãn
hơn nhu cầu trong nước.
Để phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu cần phải:
- Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào các hoạt động
dưới sự quản lý của nhà nước.
- Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu, nghĩa là
không chỉ chạy theo mục đích lợi nhuận mà bỏ qua mục đích kinh tế xã hội.
- Đảm bảo nguyên tắc ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Trong hoạt động cần phải chú ý tạo uy tín và không chỉ với các nước trong
khu vực và với các nước khác trên thế gới trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng,
cùng có lợi.
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
3. Các hình thức nhập khẩu:
3.1. Nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh
nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại
hàng hoá nhưng không có quyền tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác
cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành
nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác được hưởng phần trăm
thù lao do hai bên thoả thuận gọi là phí uỷ thác.
Trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải
bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ
hàng nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để tìm cách giao
dịch với bạn hàng nước ngoài khi có tổn thất phát sinh.
Khi nhận uỷ thác thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu (nhận uỷ thác) phải
lập hai hợp đồng:
+ Một hợp đồng nua bán hàng hoá với nước ngoại gọi là hợp đồng
ngoại thương.
+ Một hợp đồng giữa hai bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác được gọi là
hợp đồng nội thương.
Khi tiến hàng nhận uỷ thác thì đại diện các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính doanh số,
không phải tính thuế giá trị gia tăng (VAT).
3.2. Nhập khẩu tái xuất.
Là hoạt động nhập hàng nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà
để xuất khẩu sang nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Nhưng hàng hoá
nhập khẩu về này không được qua xử lý hay chế biến ở nước tái xuất. Như
vậy nhập tái xuất luôn thu hút cùng ba nước tham gia là nước nhập khẩu,
nước tái xuất và nước xuất khẩu.
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
Hoạt động nhập khẩu tái xuất có những đặc điểm sau đây:
+ Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn hàng nhập
và bạn hàng xuất, đảm bảo sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi
phí đã bỏ ra để tiến hành hoạt động.
+ Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng
xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, hợp đồng nhập khẩu là cơ sở để thực hiện hợp đồng xuất khẩu; không
phải chịu thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng kinh doanh nhưng phải chịu
thuế VAT.
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất
nhập khẩu, doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu.
+ Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển qua nước tái xuất mà có thể
được chuyển thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu (nước thứ ba) còn
gọi là phương thức chuyển khẩu nhưng tiền trả phải luôn do người tái xuất thu
của người nhập khẩu, chỉ giữ lại phần chênh lệch giữa số tiền xuất khẩu và số
tiền nhập khẩu. Ngoài ra nhiều khi người tái xuất còn thu đựoc nhiều lợi tức
về tiền hàng do thu nhanh trả chậm.
Để đảm bảo thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín dụng
giáp lưng ( Back to Back L/C).
3.3. Nhập khẩu đổi hàng.
Nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu
của buôn bán đối lưu. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu,
thanh toán ở đây không phải bằng tiền mà bằng hàng hoá. Mục đích ở đây
không phải thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất được hàng
hoá, thu lãi từ hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động nhập khẩu đổi hàng có những đặc điểm sau đây:
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
+ Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành
cùng đồng thời hoạt động nhập và xuất, do đó có thể thu lãi từ cả hai hoạt
động này.
+ Hàng hoá xuất nhập tương đương nhau về mặt giá trị, tính quý hiếm,
giá cả và điều kiện giao hàng.
+ Bạn hàng bán cũng là bạn hàng mua.
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập
và kim ngạch xuất, doanh số tiêu thụ trên cả hàng hoá xuất và hàng hoá nhập.
+ Biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng có thể là:
- Dùng thư tín dụng đối ứng (Recipocal Letter of Credit): Đây là một
loại L/C mà trong nội dung của nó có điều chỉnh quy định: L/C này chỉ có
hiệu lực khi người hưởng mở một L/C khác có kim ngạch tương đương.
- Phạt về việc giao thiếu hay giao chậm.
3.4. Nhập khẩu tự doanh.
Hoạt động nhập khẩu tự doanh là hoạt động nhập khẩu độc lập của một
doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong nước
và ngoài nước, tính toán đầy đủ các chi phí, chính sách, luật pháp của quốc
gia cũng như quốc tế.
Hoạt động nhập khẩu tự doanh có những đặc điểm sau đây:
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải chịu trách nhiệm toàn bộ các hoạt
động của mình. Vì thế nó đòi hỏi phải có sự xem xét kỹ lưỡng mọi vấn đề từ
khâu nghiên cứu thị trường đầu vào, đầu ra cho đến việc ký kết thực hiện hợp
đồng, bán hàng thu tiền về... Trong hợp đồng này, doanh nghiệp phải tự bỏ
vốn và phải cân nhắc các khoản thu chi để đảm bảo kinh doanh có lãi.
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
+ Khi nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp xuất nhập khẩu được tính
kim ngạch xuất nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hoá thì được tính doanh số và
chịu thuế giá trị gia tăng (VAT).
+ Thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại thương
để giao dịch với bên nước ngoài. Còn các hợp đồng bán hàng trong nước thì
sau khi hàng về sẽ lập sau hoặc bán với hình thức khác như bán buôn.
3.5. Nhập khẩu liên doanh.
Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách
tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất
nhập khẩu trực tiếp) phối hợp cùng nhau để tiến hành giao dịch và đề ra các
chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt
động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên (các bên) cùng phân
chia lỗ lãi tuỳ theo trách nhiệm của mỗi bên.
Hoạt động nhập khẩu liên doanh có những đặc điểm sau đây:
+ So với nhập khẩu tự doanh thì ở loại hình này các doanh nghiệp ít
chịu rủi ro hơn bởi vì mỗi doanh nghiệp tham gia liên doanh chỉ phải góp một
phần vốn nhất định. Quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên chỉ được phân bổ
dựa trên phần vốn góp đó. Rủi ro (nếu có) sẽ được san sẻ cho các bên và như
thế các doanh nghiệp thành viên phải chịu phần rủi ro ít hơn. Việc phân chia
chi phí, lỗ lãi sẽ được dựa trên phần vốn góp và các thoả thuận giữa các nước
với nhau.
+ Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu sẽ
được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi tiêu thụ hàng hoá thì được tính
doanh số trên giá trị hàng hoá nhập theo tỷ lệ vốn góp của mình đồng thời
chịu mọi khoản thuế trên phần doanh số đó.
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải lập ra hai hợp đồng:
- Một hợp đồng ngoại thương mua hàng với nước ngoài.
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
- Một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết là
phải Nhà nước).
Sự phân chia như trên đây là căn cứ vào chủ thể của hoạt động nhập
khẩu. Nếu quan tâm đến hình thức thanh toán trong hoạt động này thì có thể
là mua bán thanh toán bằng hàng. Mua bán tiền-hàng là cách thông thường,
truyền thống. Thanh toán bằng hàng (còn gọi là buôn bán đối lưu) là một hình
thức còn tương đối mới mẻ với chúng ta và trong phạm vi ở đây cũng nên tìm
hiểu hình thức này.
3.6. Một số hình thức khác.
+ Tạm xuất tái nhập (qua gia công sửa chữa ở nước ngoài).
+ Nhận nguyên vật liệu, giao sản phẩm gia công quốc tế.
+ Dịch vụ kiểm tra và chuyển giao công nghệ mới (thuê chuyên gia).
II. HIỆU QUẢ KINH DOANH VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ.
1. Hiệu quả kinh doanh.
1.1. Khái niệm, bản chất hiệu quả kinh doanh.
1.1.1. Khái niệm:
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm hiệu quả kinh doanh. Có
quan điểm cho rằng: "Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản
lượng của một lượng hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng của một loại
hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trong giới hạn khả năng sản
xuất của nó". Thực chất quan điểm này đã đề cập tới khía cạnh phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Trên góc độ này rõ ràng phân
bổ các nguồn lực kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên
đường giới hạn khả năng sản xuất làm cho nền kinh tế có hiệu quả và rõ ràng
xét trên phương diện lý thuyết thì đây là mức hiệu quả cao nhất mà mỗi nền
kinh tế có thể đạt được trên giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
Một số nhà quản trị học lại quan niệm hiệu quả kinh doanh được xác
định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả
đó. Manfred Kuhn cho rằng: Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết
quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh.
Quan điểm khác lại cho rằng: Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, nó xuất
hiện và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội xã hội chủ nghĩa. Hiệu
quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào
hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục đích nhất định.
Trong những hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau thì bản
chất của phạm trù hiệu quả và những yếu tố hợp thành phạm trù hiệu quả vận
động theo những khuynh hướng khác nhau.
Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất và do vậy quyền lợi về kinh tế, chính trị... đều dành cho nhà tư bản.
Chính vì thế việc phấn đấu tăng hiệu quả kinh doanh thực chất là đem lại lợi
nhuận nhiều hơn nữa cho nhà tư bản nhằm nâng cao thu nhập cho họ, trong
khi thu nhập của người lao động có thể thấp hơn nữa. Do vậy, việc tăng chất
lượng sản phẩm không phải là để phục vụ trực tiếp người tiêu dùng mà để thu
hút khách hàng nhằm bán được ngày càng nhiều hơn và qua đó thu được lợi
nhuận lớn hơn.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phạm trù hiệu quả vốn tồn tại vì sản
phẩm sản xuất xã hội sản xuất ra vẫn là hàng hoá. Do các tài sản đều thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước, toàn dân và tập thể, hơn nữa mục đích của nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng khác mục đích của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là đáp ứng đủ nhu cầu
ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội nên bản chất của phạm trù
hiệu quả cũng khác với tư bản chủ nghĩa.
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
Xét trên bình diện các quan điểm kinh tế học khác nhau cũng có nhiều
ý kiến khác nhau về hiểu như thế nào về hiệu quả kinh doanh.
- Nhà kinh tế học Adam Smith cho rằng: "Hiệu quả là kết quả đạt được
trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá". Như vậy, hiệu quả
được đồng nghĩa với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh, có thể
do tăng chi phí mở rộng sử dụng nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có
hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này doanh nghiệp cũng đạt hiệu
quả.
- Quan điểm nữa cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là tỷ lệ so sánh tương
đối giữa kết quả và chi phí để đạt được kết quả đó. Ưu điểm của quan điểm
này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên
chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chưa phản
ánh được hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này.
- Quan điểm khác nữa lại cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là mức độ
thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội cho rằng
quỹ tiêu dùng với ý nghĩa là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người
trong các doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh". Quan điểm
này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Nhưng
khó khăn ở đây là phương tiện để đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó.
Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả kinh
doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân tài, vật lực,
tiền vốn...) để đạt được mục tiêu xác định. Trình độ lợi dụng các nguồn lực
chỉ có thể được đánh gia trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem
với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra ở mức độ nào. Vì vậy, có
thể mô tả hiệu quả kinh doanh bằng các công thức chung nhất sau đây:
K
H =
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
C
Trong đó:
H: Hiệu quả kinh doanh
K: Kết quả đạt được
C: Hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đó.
Hiệu quả kinh doanh theo khái niệm rộng là một phạm trù kinh tế phản
ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp. Như vậy cần phân định sự khác nhau và mối liên hệ giữa "kết quả" và
"hiệu quả".
Bất kỳ hành động nào của con người nói chung và trong kinh doanh nói
riêng đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích cụ thể nào đó, kết quả
đạt được trong kinh doanh mà cụ thể là trong lĩnh vực sản xuất, phân phối lưu
thông mới chỉ đáp ứng được phần nào tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Tuy
nhiên, kết quả đó được tạo ra ở mức độ nào, với giá nào là vấn đề cần xem xét
vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Mặt khác nhu cầu tiêu
dùng của con người bao giờ cũng có xu hướng lớn hơn khả năng tạo ra sản
phẩm được nhiều nhất. Vì vậy nên khi đánh giá hoạt động kinh doanh tức là
đánh giá chất lượng của hoạt động kinh doanh tạo ra kết quả mà nó có được.
Như vậy, hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh: So sánh giữa
đầu vào và đầu ra, so sánh giữa chi phí kinh doanh bỏ ra và kết quả kinh
doanh thu được. Đứng trên góc độ xã hội, chi phí xem xét phải là chi phí xã
hội, do có sự kết hợp của các yếu tố lao động, tư liệu lao động và đối tượng
lao động theo một tương quan cả về lượng và chất trong quá trình kinh doanh
để tạo ra sản phẩm đủ tiêu chuẩn cho tiêu dùng....
Tóm lại, hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động
kinh doanh, trình độ nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh,
không phụ thuộc vào tốc độ biến động của từng nhân tố.
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
1.1.2. Bản chất.
Từ khái niệm về hiệu quả nêu ở trên đã khẳng định bản chất của hiệu
quả kinh doanh là phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh
nghiệp để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội và nó chính là hiệu quả của
lao động xã hội được xác định trong mối tương quan giữa lượng kết quả hữu
ích cuối cùng thu được với lượng hao phí lao động xã hội bỏ ra. Hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện cả về
không gian và thời qian, cả về mặt định tính và định lượng. Về mặt thời gian,
hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không
được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ, chu kỳ kinh doanh
tiếp theo. Điều đó đòi hỏi bản thân doanh nghiệp không được vì lợi ích trước
mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Trong thực tế kinh doanh, điều này dễ xảy ra
khi con người khai thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường và
cả nguồn lao động. Không thể coi tăng thu giảm chi là có hiệu quả khi giảm
một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc các chi phí cải tạo môi trường, đảm bảo môi
trường sinh thái, đầu tư cho giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực....
Hiệu quả kinh doanh chỉ được coi là đạt được một cách toàn diện khi
hoạt động của các bộ phận mang lại hiệu quả không ảnh hưởng đến hiệu quả
chung ( về mặt định hướng là tăng thu giảm chi ). Điều đó có nghĩa là tiết
kiệm tối đa các chi phí kinh doanh và khai thác các nguồn lực sẵn có làm sao
đạt được kết quả lớn nhất.
1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh.
2.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội của nền
kinh tế quốc dân.
Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả kinh doanh thu được từ các
hoạt động thương mại của từng doanh nghiệp kinh doanh. Biểu hiện chung
của hiệu quả kinh doanh cá biệt là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
Luận văn tốt nghiệp Khoa KT&KDQT
Hiệu quả kinh tế - xã hội mà hoạt động kinh doanh đem lại cho nền
kinh tế quốc dân là sự đóng góp của nó vào việc phát triển sản xuất, đổi mới
cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho
ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có quan hệ
nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể
đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiêp. Mỗi doanh
nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
sẽ đóng góp vào hiệu quả chung của nền kinh tế. Ngược lại, tính hiệu quả của
bộ máy kinh tế sẽ là tiền đề tích cực, là khung cơ sở cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đạt kết quả cao. Đó chính là mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể. Tính hiệu quả
của nền kinh tế xuất phát từ chính hiệu quả của mỗi doanh nghiệp và một nền
kinh tế vận hành tốt là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động và
ngày một phát triển.
Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình các doanh nghiệp phải
thường xuyên quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo lợi ích riêng
hài hoà với lợi ích chung. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, với vai trò
định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế cần có các chính sách tạo điều
kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể hoạt động đạt hiệu quả cao nhất trong
khả năng có thể của mình.
2.2. Hiệu quả chi phí bộ phận và hiệu quả chi phí tổng hợp.
Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn liền với môi trường
kinh doanh của nó nhằm giải quyết những vấn đề then chốt trong kinh doanh
như: Kinh doanh cái gì? Kinh doanh cho ai? Kinh doanh như thế nào và chi
phí bao nhiêu?...
Mỗi doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trong
những điều kiện riêng về tài nguyên, trình độ trang thiết bị kỹ thuật
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kd70_.pdf