Là liên kết giữa các đơn vị không có cùng chức năng, nhiệm vụ kinh
doanh, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình SXKD để tạo ra sản
54
phẩm cuối cùng. Đây là mối quan hệ giữa các đơn vị sản xuất-cung ứng
nguyên liệu; sản xuất kinh doanh - vận chuyển, kho tàng; sản xuất- tiêu thụ;
sản xuất kinh doanh - các dịch vụ khác. Tại Sunimex có nhiều tiềm năng thực
hiện liên kết này như: liên kết giữa đơn vị kinh doanh vận chuyển hàng hóa,
kho bãi với các đơn vị kinh doanh; liên kết giữa đơn vị kinh doanh xe taxi với
các đơn vị kinh doanh du lịch, nhà hàng khách sạn; liên kếtgiữa đơn vị sản
xuất bao bì với các đơn vị sản xuất ; liên kết giữa đơn vị kinh doanh hàng nông
sản với các đơn vị kinh doanh nhà hàng khách sạn .
Thời gian qua, tiềm năng các mối liên kết này chưa được khai thác tốt
trên giác độ kế hoạch phối hợp của toàn TCT, cũng như hiệp tác trực tiếp giữa
các đơn vị thành viên. Nếu các liên kết này được phát huy sẽ khắc phục tình
trạng hoạt động trùng lắp,manh mún; khai thác và phát huy được ưu thế phối
hợp của một đơn vị kinh doanh lớn; nâng cao hiệu quả hoạt động của từng
thành viên và toàn TCT; giảm thiểu những ảnh hưởng xấu do biến động của thị
trường gây ra
73 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1046 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tổng công ty Bến Thành và mô hình công tymẹ-Công ty con, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h sự phát triển trong tương lai của doanh
nghiệp. Bởi nếu góp vốn mua cổ phần vào một doanh nghiệp với tỷ lệ vốn
thấp như hiện nay, các cổ đông bên ngoài thực ra chỉ có quyền nhận cổ tức, do
cổ đông nhà nước với số cổ phần nắm giữ lớn nhất hầu như có toàn quyền định
đoạt mọi vấn đề trong đại hội cổ đông (theo Luật Doanh nghiệp). Mặt khác do
3 Thông tin lấy từ trang web Vietnamnet (wwww.vnn.vn) ngày 1/10/2004
4 Thông tin lấy từ trang web báo Đầu tư chứng khoán- Bộ Kế họach Đầu tư (www.vir.com)
52
cổ đông bên ngoài thấp khiến các doanh nghiệp này không đủ điều kiện để lên
sàn giao dịch (theo nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường
chứng khoán, để được niêm yết, công ty cổ phần phải có tối thiểu 20% vốn cổ
phần do ít nhất 50 cổ đông bên ngoài nắm giữ); làm cho cổ phiếu có tính thanh
khoản kém; TCT khó có thể thay đổi cơ cấu vốn đầu tư trong các công ty này
Do đó việc bán cổ phần ra bên ngoài với tỷ lệ quá thấp thì CPH chỉ là
hình thức vì khó đạt mục tiêu đã đề ra như trong tinh thần của Nghị định
187/2004 NĐ-CP là: tạo điều kiện cho DN có nhiều chủ sở hữu, tạo động lực
mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp
huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài
nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
Để tăng lượng cổ phần bán ra bên ngoài, cần giảm lượng cổ phần Nhà
nước ở những ngành nghề mà Nhà nước không cần chi phối, thay đổi cơ chế
bán cổ phần như hiện nay, chuyển từ hình thức CPH nội bộ là chính sang hình
thức bán cổ phần ra ngoài doanh nghiệp, ưu tiên cho nhà đầu tư chiến lược.
Cho nên đối với các DNTV còn lại sẽ CPH trong thời gian tới, TCT cần
thay đổi về nhận thức, về quan điểm đối với CPH để có thể đạt được các mục
tiêu đã đề ra. Mặt khác Nhà nước cần có cơ chế chính sách cũng như chỉ đạo
điều hành trong vấn đề này.
3.1.3 Thay đổi cách hạch toán và báo cáo tài chính
3.1.3.1 Thay đổi cách hạch toán
Theo cách hạch toán cộng sổ hiện nay, báo cáo quyết toán, bảng cân đối
kế toán của TCT bao gồm các báo cáo quyết toán, các bảng cân đối kế toán
của các DNTV và khối văn phòng TCT cộng lại nên đã không thể hiện rõ đâu
là tài sản, là khoản nợ của TCTï, đâu là tài sản, khoản nợ của các công ty thành
viên. Vì tài sản của công ty thành viên chỉ có một phần tài sản của TCT đầu tư
vào, và các khoản nợ của các công ty thành viên không hẳn là khoản nợ của
TCT.
Khi chuyển sang mô hình công ty mẹ - công ty con, đối với các công ty
TNHH một thành viên hoặc các doanh nghiệp vẫn tạm thời là công ty nhà
nước, mặc dầu TCT(công ty mẹ) đầu tư 100% vốn điều lệ, thì phải thay đổi
cách hạch toán lại theo nguyên tắc vốn điều lệ ở công ty con là tài sản đầu tư
dài hạn của công ty mẹ. Có như thế mới tách bạch được quyền và nghĩa vụ về
tài sản của công ty mẹ đối với công ty con, công ty thành viên theo như khoản
1 Điều 46 Luật Doanh nghiệp:“chủ sở hữu chịu trách nghiệm về các khoản nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ
của doanh nghiệp”.
53
3.1.3.2 Thay đổi cách lập báo cáo tài chính
Cũng theo cách hạch toán cộng sổ doanh thu, chi phí và lợi nhuận của
TCT bao gồm doanh thu, chi phí, lợi nhuận của các đơn vị hạch toán phụ thuộc
và của các DNTV cộng lại. Do đó báo cáo tài chính chưa đánh giá được khái
quát tình hình tài chính, kết quả hoạt động trong toàn TCT trong kỳ hoạt động.
Để đánh giá được tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh
trong kỳ, báo cáo tài chính của TCT phải loại trừ các sự kiện tài chính trùng
lắp, các giao dịch nội bộ trong TCT, chứ không phải sự cộng lại một cách đơn
thuần các khoản mục một cách tương ứng trên các báo cáo tài chính của công
ty con, công ty thành viên. Công ty mẹ lập báo cáo tài của toàn TCT dựa trên
cơ sở số liệu và các dữ kiện từ các báo cáo tài chính riêng của các công ty con,
các chứng từ phản ánh nghiệp vụ giao dịch nội bộ...
Để góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng quản lý tài chính
quốc gia và quản lý doanh nghiệp, Nhà nước cần sớm ban hành các quy định
mang tính pháp lý về lập báo cáo tài chính hợp nhất nhằm tạo ra một hành lang
pháp lý cho hoạt động của các TCTtổ chức theo mô hình công ty mẹ-công ty
con. Các quy định này nhất thiết phải có sự tương đồng với thông lệ quốc tế.
3.1.4 Tạo mối liên kết trong nội bộ tổng công ty
Ngoài mối liên kết về vốn, Sunimex cần tăng cường sự liên kết trong
quá trình sản xuất kinh doanh giữa các đơn vị hiện nay. Việc liên kết giữa các
thành viên có thể là liên kết ngang, liên kết dọc và thể hiện qua quá trình sản
xuất, cung ứng, tiêu thụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị...
3.1.4.1 Liên kết ngang
Là liên kết giữa các doanh nghiệp có một số chức năng, nhiệm vụ sản
xuất giống nhau hoặc gần giống nhau. Tại Sunimex một số sản phẩm, dịch vụ
kinh doanh gần giống nhau nên khả năng phối hợp giữa các đơn vị thành viên
có nhiều thuận lợi. Cụ thể ở các đơn vị như Công ty kinh doanh nhà và Công ty
dịch vụ & phát triển nhà cùng kinh doanh xây dựng nhà, cơ sở hạ tầng dân cư;
hoặc kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, kinh doanh nhà hàng khách
sạn, cao ốc văn phòng cho thuê...ở các đơn vị như Khối trục, công ty Bến
Thành Tourits, công ty Savico, công ty Vật tư.
3.1.4.2 Liên kết dọc
Là liên kết giữa các đơn vị không có cùng chức năng, nhiệm vụ kinh
doanh, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình SXKD để tạo ra sản
54
phẩm cuối cùng. Đây là mối quan hệ giữa các đơn vị sản xuất-cung ứng
nguyên liệu; sản xuất kinh doanh - vận chuyển, kho tàng; sản xuất- tiêu thụ;
sản xuất kinh doanh - các dịch vụ khác. Tại Sunimex có nhiều tiềm năng thực
hiện liên kết này như: liên kết giữa đơn vị kinh doanh vận chuyển hàng hóa,
kho bãi với các đơn vị kinh doanh; liên kết giữa đơn vị kinh doanh xe taxi với
các đơn vị kinh doanh du lịch, nhà hàng khách sạn; liên kết giữa đơn vị sản
xuất bao bì với các đơn vị sản xuất ; liên kết giữa đơn vị kinh doanh hàng nông
sản với các đơn vị kinh doanh nhà hàng khách sạn ....
Thời gian qua, tiềm năng các mối liên kết này chưa được khai thác tốt
trên giác độ kế hoạch phối hợp của toàn TCT, cũng như hiệp tác trực tiếp giữa
các đơn vị thành viên. Nếu các liên kết này được phát huy sẽ khắc phục tình
trạng hoạt động trùng lắp, manh mún; khai thác và phát huy được ưu thế phối
hợp của một đơn vị kinh doanh lớn; nâng cao hiệu quả hoạt động của từng
thành viên và toàn TCT; giảm thiểu những ảnh hưởng xấu do biến động của thị
trường gây ra.
3.1.5 Đưa họat động dịch vụ thương mại đi vào chiều sâu, tạo mối liên kết
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hình thành mối liên kết bằng vốn
vô hình
Hoạt động dịch vụ thương mại của TCT hiện còn giản đơn trong quá
trình lưu thông hàng hóa như vận chuyển, đại lý phân phối sản phẩm cho các
công ty nước ngoài, xuất nhập khẩu ủy thác. Còn các dịch vụ cao cấp tạo ra
nhiều giá trị thặng dư cho các DNTV và các nhà sản xuất trong nước như : cung
cấp thông tin (thị trường, đối thủ, khuynh hướng thị trường) nghiên cứu thị
trường, cùng nhà sản xuất xây dựng thương hiệu và tiếp thị sản phẩm (trên thị
trường nội địa và quốc tế) thì hầu như chưa có. Thiết nghĩ trong thời gian tới,
TCT cần có kế hoạch phát triển dịch vụ thương mại theo hướng liên kết với các
nhà sản xuất để tìm kiếm, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước; tiếp thị,
cung cấp nguyên liệu đầu vào, phân phối sản phẩm; phát triển thương hiệu.
Qua nghiên cứu thị trường nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng, TCT đặt hàng cho
các đơn vị sản xuất (kể cả công ty con) để sản xuất hàng hóa với thương hiệu
cụ thể của TCT, phù hợp với yêu cầu thị trường, sau đó xuất bán cho các khách
hàng trong và ngoài nước.
Trước mắt, tiến hành liên kết đầu tư vốn với các doanh nghiệp, cơ
sơ’sản xuất các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của TCT như: thực phẩm chế
biến, hàng nông sản, thủy hải sản, hàng công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp.
Việc liên doanh liên kết này đảm bảo nguồn hàng đầu vào có chất lượng ổn
định, đặc biệt là những mặt hàng có yêu cầu về chất lượng, vệ sinh an toàn
55
thực phẩm ngày càng tăng (thực phẩm chế biến, hàng nông sản, thủy hải sản).
Thông qua mối liên kết này mở rộng địa bàn, lĩnh vực kinh doanh kết nạp thêm
nhiều công ty con, công ty liên kết. Hiện nay ở nước ta các doanh nghiệp vừa
và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn, đây là một thị trường đầy tiềm năng để thực hiện
mối liên kết này.
Qua sự liên kết hợp tác này sẽ phát huy được thế mạnh và sở trường của
từng loại hình doanh nghiệp, từng vùng, địa phương trong nền kinh tế. Mô hình
hợp tác liên kết này sẽ mang lại lợi ích cho các bên: Nhà sản xuất trong nước
tập trung chuyên môn hóa khâu sản xuất, sản phẩm ít qua tầng nấc trung gian
nhất là khi xuất hàng ra nước ngoài; TCT sẽ mở rộng lĩnh vực, địa bàn kinh
doanh, tạo thêm nhiều mối liên kết mới bền chặt hơn; người tiêu dùng được
hưởng lợi về giá và các tiện ích do sản phẩm mang lại.
Xu hướng một công ty nắm quyền chi phối công ty khác bằng vốn “vô
hình” là thương hiệu, thị trường, bí quyết công nghệ, tham gia vào dây chuyền
SXKD rất phổ biến trên thế giới. Nhưng ở nước ta, đặc biệt là trong khu vực
DNNN, thì hình thức này chưa phổ biến. Đây là hình thức tạo mối liên kết mà
công ty mẹ dù vốn ít (không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp trên 50% vốn điều
lệ) vẫn giữ được quyền chi phối công ty con. Việc tạo liên kết vô hình sẽ phù
hợp với các TCT chuyển đổi vì khi nguồn vốn CPH cạn dần, lợi tức thu về từ
các doanh nghiệp có vốn góp chưa nhiều, thì TCT không thể cứ dùng hình thức
góp vốn chi phối mà phải hình thành những mối liên kết là thương hiệu, thị
trường, uy tín; có như thế mới phát triển về qui mô, đa dạng hình thức hoạt
động, sử dụng đồng vốn hiệu quả hơn.
Để có thể tạo được mối liên kết bằng vốn “vô hình”, TCT cần nhanh
chóng đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại nhằm xây dựng, tổ chức quản lý
hoạt động xúc tiến thương mại và tiếp thị của TCT. Xây dựng mạng thông tin
giao dịch thương mại, ứng dụng thư điện tử trong TCT và các đơn vị thành
viên. Tổ chức lại công tác thông tin: thông tin về thị trường, công nghệ, cơ chế
chính sách, thông tin về các đối thủ cạnh tranh. Xây dựng ngân hàng dữ liệu
thông tin nhằm hỗ trợ kết hợp.Tuy nhiên để thực hiện được cần có sự hỗ trợ
của Nhà nước của Thành phố trong việc cung cấp thông tin, nghiên cứu, tìm
kiếm thị trường nước ngoài.
3.1.6 Phát triển nguồn nhân lực
Chuyển đổi từ TCT Nhà nước sang mô hình công ty mẹ con sẽ thay đổi
các chức năng quản lý và đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên viên nghiên
cứu phải có trình độ cao. Hơn nữa khi chuyển sang mô hình mới, nhà quản lý
phải chấp nhận từ bỏ những thói quen trong mô hình quản lý cũ, áp dụng các
56
mô hình mới đòi hỏi những nỗ lực và kỹ năng mới; hiệu quả phụ thuộc rất lớn
vào con người.
Một thực tế đang xảy ra tại Sunimex là khi đồng loạt tiến hành CPH các
DNTV, hoặc góp vốn, mua cổ phần ở doanh nghiệp khác, TCT phải cử người
trực tiếp quản lý phần vốn góp của TCT ở các đơn vị này. Nhưng do chưa
chuẩn bị nguồn cán bộ quản lý hoặc do cơ cấu (phải là lãnh đạo chủ chốt), TCT
cử một người trực tiếp quản lý ở nhiều công ty. Vấn đề đặt ra ở đây là người
trực tiếp quản lý có khả năng thực hiện được những nhiệm vụ như trong điều lệ
đã quy định cùng một lúc ở nhiều công ty hay không? Hay việc cử người đại
diện chỉ mang tính hình thức, đại diện chỉ là... đại diện. Mặt khác với cổ phần
chi phối, người đại diện cổ phần nhà nước có quyền chi phối hầu như toàn bộ
hoạt động của doanh nghiệp từ việc quyết định các dự án đầu tư mới, phương
hướng sản xuất, nhưng do lợi ích cá nhân không gắn với lợi ích của doanh
nghiệp nên họ không mấy trăn trở với sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp.
Sự bất cân xứng giữa quyền chi phối và lợi ích cá nhân của người đại diện như
nói trên sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các công ty này và của cả
công ty mẹ.
Do đó trên nền tảng mô hình công ty mẹ-công ty con, TCT cần rà soát
phân loại đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên viên hiện có, xác định nhu cầu về số
lượng và chất lượng từng loại, từ đó có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, và thu hút
từ bên ngoài. Ngoài việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật và giáo dục
tư tưởng, cần khẩn trương nghiên cứu xây dựng các tiêu chí và quy trình tuyển
chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, người đại diện phần vốn
TCT tại các doanh nghiệp, các chuyên viên nghiên cứu. Người đại diện phần
vốn góp của TCT phải có trình độ, am hiểu lĩnh vực sản xuất kinh doanh tại
doanh nghiệp mà họ làm đại diện, tại các liên doanh nước ngoài còn đòi hỏi
phải giỏi ngoại ngữ. Có như thế người đại diện mới có thể tham mưu cho
HĐQT trong định hướng, quyết định các vấn đề quan trọng đối với hoạt động
của các công ty con. Hình thành đồng bộ cơ chế quản lý và tổ chức của TCT,
phù hợp với quá trình công ty hóa, đa dạng hóa sở hữu (CPH, hợp tác liên
doanh, sở hữu hỗn hợp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Cần xác lập
rõ trách nhiệm và cơ chế tạo động lực, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cá
nhân cán bộ quản lý-đại diện công ty mẹ trực tiếp quản lý phần vốn tại công ty
con. Bên cạnh đó cần đưa ra chế độ khuyến khích vật chất, đãi ngộ xứng đáng,
cũng như xử phạt nghiêm minh để tạo động lực cho nhà quản lý phát huy khả
năng, toàn tâm toàn ý với nhiệm vụ được giao cũng như ngăn ngừa những hành
vi tiêu cực. Việc kiêm nhiệm làm đại diện ở nhiều doanh nghiệp cần nhanh
chóng được thay thế.
57
Song song đó, tùy theo nhu cầu công việc mà có kế hoạch đào tạo, đào
tạo lại đội ngũ lao động, công nhân kỹ thuật đáp ứng được nhiệm vụ được
giao trên tinh thần hiệu quả và tiết kiệm.
Ngoài ra, TCT cần có những biện pháp cụ thể để thu hút những cán bộ
quản lý có trình độ cao, phù hợp với yêu cầu quản lý của TCT. Chính những
nhân tố từ bên ngoài sẽ đem lại sức sống mới cho doanh nghiệp. Thu hút nhân
tài là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên thành công của doanh
nghiệp. Nếu một doanh nghiệp không có nhân tài thì khó có khả năng phát
triển. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp liên quan đến việc chọn, giữ,
đào tạo nhân tài. Chú ý đến nguồn lực lượng kế cận, cần xây dựng quy hoạch
đào tạo, cán bộ nguồn, lực lượng kết thừa.
3.2 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ
NƯỚC
3.2.1 Phát triển thị trường chứng khoán
Chứng khoán và thị trường chứng khoán (TTCK) là những biểu hiện của
sự phát triển ở mức độ cao của nền kinh tế thị trường. Trên thị trường chứng
khoán, các cổ phiếu, trái phiếu của công ty được mua bán tạo nên thị trường
vốn sôi động. Vốn sẽ lưu chuyển từ nơi có hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả
cao. Sự phát triển của TTCK phụ thuộc chủ yếu vào việc trên thị trường có
chứng khoán để giao dịch hay không. Các công ty cổ phần thường là doanh
nghiệp cung cấp chứng khoán với tỷ lệ lớn hơn so với các doanh nghiệp khác.
Sự hoạt động có hiệu quả của TTCK sẽ khuyến khích sự tham gia của công
chúng vào việc mua cổ phần của DNNN cổ phần hóa, vì họ hiểu rằng bất cứ
lúc nào, nếu cần họ có thể chuyển từ cổ phiếu sang tiền mặt nhờ vào khả năng
thanh khoản của chúng. Chứng khoán với tính thanh khoản cao của nó sẽ có tác
động lớn trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội cho các công ty cổ
phần. Chỉ với sự tồn tại của TTCK, những cổ đông của công ty cổ phần, những
nhà đầu tư mới thực sự yên tâm đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu. Sự tham gia
của các công ty cổ phần vào thị trường chứng khoán buộc những nhà quản lý
công ty phải điều hành tốt hơn do phải công bố với các cổ đông và công chúng
về tình hình SXKD, thực hiện chế độ báo cáo tài chính minh bạch của công ty.
Giữa thị trường chứng khoán và công ty cổ phần có mối liên hệ mật thiết với
nhau.
Để cho hàng hóa của thị trường chứng khoán dồi dào thì các công ty cổ
phần phải được lên sàn giao dịch. Cho đến nay các công ty cổ phần thị trường
chứng khoán Việt Nam mới chỉ thu hút được 25 công ty niêm yết với tổng giá
58
trị thị trường của các công ty niêm yết là 132 triệu USD, một con số quá nhỏ
nếu so với quy mô các thị trường chứng khoán lân cận như Thái Lan có 419
công ty niêm yết, với quy mô 101 tỷ USD; Malaysia có 937 công ty niêm yết,
qui mô 172 tỷ USD; Trung Quốc có 1.253 công ty niêm yết, quy mô 463 tỷ
USD 5
Nhà nước cần có các chủ trương chính sách hỗ trợ, khuyến khích cụ thể
để hình thành các điều kiện kinh tế, pháp lý kỹ thuật nhân lực một cách đầy đủ
và đồng bộ cho thị trường chứng khoán vận hành; trong đó môi trường pháp lý
là nhân tố đặc biệt quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của thị
trường chứng khoán. Sớm ban hành Luật về TTCK và phải được sửa đổi từng
bước sao cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể của TTCK.
Phần lớn những người đầu tư vào các doanh nghiệp CPH đều mong
muốn những công ty này niêm yết để cổ phiếu có tính thanh khoản, có nơi giao
dịch. Người bán người mua đều cảm thấy an tâm hơn với những chứng nhận về
mặt pháp lý cho cổ phiếu. Ngoài sàn, nhiều khi cổ phiếu của những doanh
nghiệp chưa niêm yết chỉ được giao dịch bằng giấy tay, độ rủi ro cao. Cần có
cơ chế chính sách khuyến khích các công ty CPH niêm yết trên thị trường
chứng khoán như: có chế độ ưu đãi công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán tiếp cận dễ dàng với ngân hàng; giảm thuế các doanh nghiệp thực hiện
CPH; giảm các loại thuế hành chính liên quan đến việc phát hành mua bán
chứng khoán đăng ký trên thị trường...để cổ phiếu có tính thanh khoản, tăng
hàng hóa cho thị trường chứng khoán, khơi thông kênh huy động vốn chủ yếu
và hiệu quả cho nền kinh tế.
3.2.2 Về quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng quản trị công ty mẹ
trong đầu tư góp vốn và bán tài sản ở công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên
Theo khoản 1 Điều 46 Luật Doanh nghiệp năm 1999 nói về công ty
TNHH một thành viên: “chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của
doanh nghiệp”. Cũng ở Luật Doanh nghiệp tại khoản 1d Điều 47 nói về quyền
và nghĩa vụ của chủ sở hữu “Quyết định các dự án đầu tư có giá trị bằng hoặc
lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty”; khoản
1đ “Quyết định bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản
được ghi trong sổ kế toán của công ty”.
Xét trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp thì:
5 Thông tin lấy từ trang Web báo Đầu tư chúng khoán-Bộ Kế hoạch – Đầu tư (www.vir.com)
59
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu.
Trong quá trình SXKD, công ty con có nhu cầu vốn nhưng do không
được phát hành cổ phiếu (theo khoản 3 Điều 46 Luật Doanh nghiệp) nên đi
vay, nếu số nợ vay lớn hơn nguồn vốn chủ sở hữu, chẳng hạn nợ bằng 2 trong
khi nguồn vốn chủ sở hữu bằng 1; lúc đó:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn =Nợ phải trả+ Nguồn vốn chủ sở hữu = 3
50% Tổng tài sản = 1,5
Nếu theo các điều khoản nêu trên, công ty mẹ có quyền quyết định bán
hoặc đầu tư (bao gồm đầu tư ra ngoài, góp vốn mua cổ phần ở doanh nghiệp
khác) tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn giá trị vốn mà công ty mẹ đã đầu tư
vào công ty con : 1,5 1; nhưng chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn điều lệ đã đầu tư vào công ty con
(theo giả định bằng 1); tức là bán cái không phải của mình. Rõ ràng đã có sự
nghịch lý về quyền hạn và trách nhiệm, nghĩa vụ của công ty mẹ đối với công
ty con. Khi điều này xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế xã hội.
≥
Tương tự như vậy tại khoản 2b Điều 30 Luật DNNN, HĐQT quyết định
hoặc phân cấp cho TGĐ “quyết định các dự án đầu tư, góp vốn, mua cổ phần
của các công ty khác, bán tài sản của công ty có giá trị đến 50% tổng giá trị tài
sản được ghi trong sổ kế toán của công ty”.
Để tránh sự nghịch lý này nên chăng cần chỉnh lại “...giá trị bằng hoặc
lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty với điều
kiện không được vượt quá tổng mức vốn điều lệ”. Có như thế mới tránh được
những xáo trộn xảy ra khi công ty con vào tình trạng mất khả năng chi trả.
3.2.3 Xác định lại vốn Nhà nước khi đầu tư góp vốn tại các doanh nghiệp
khác
Theo khoản 1c Điều 37 Nghị định 153/2004/NĐ-CP ngày 9/8/2004 (sau
đây gọi là Nghị định 153), Vốn điều lệ của công ty mẹ được hình thành từ
chuyển đổi TCT, công ty thành viên hạch toán độc lập của TCT, công ty nhà
nước độc lập là số vốn Nhà nước đầu tư và ghi trong Điều lệ công ty mẹ gồm
“Vốn nhà nước được TCT, công ty thành viên hạch toán độc lập của TCT, công
ty Nhà nước độc lập góp vào các công ty cổ phần, công ty TNHHtừ hai thành
viên trở lên, công ty liên doanh với nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài”.
Nhưng thực tế khi doanh nghiệp đem góp vốn, mua cổ phần liên doanh với các
đối tác, ngoài vốn Nhà nươc còn có vốn doanh nghiệp tự huy động.
Do đó cần thay đổi cách xác định vốn Nhà nước ở các doanh nghiệp liên
doanh, liên kết theo tỷ lệ vốn Nhà nước trên tổng vốn, chứ không thể là toàn
bộ số vốn mà doanh nghiệp tham gia liên doanh, liên kết.
60
3.2.4 Xác định lại chủ sở hữu của các công ty con do các doanh nghiệp
thành viên thành lập
Theo Quyết định số 1848/QĐ-UB ngày 19/5/2003 của UBND TP HCM
v/v tổ chức lại TCT Bến Thành hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty
con, thì công ty con là các doanh nghiệp do TCT sở hữu toàn bộ hoặc một phần
vốn điều lệ nhưng có quyền chi phối. Đặc điểm của TCT là có những doanh
nghiệp TCT hoặc do một DNTV tham gia gó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 42801.pdf