Luận văn Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) được thành lập ngày 26/4/1957, là một trong những ngân hàng lớn nhất ở Việt Nam hiện nay. Trước năm 2000, ngân hàng chủ yếu tập trung vào các dự án lớn, các Tổng công ty lớn của Nhà nước, nên thường được biết đến như là một ngân hàng của Chính phủ. Đến nay, trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trường, ngân hàng đã có những định hướng mới trong chiến lược hoạt động, trong đó có hoạt động tín dụng. Giai đoạn 2001-2005, cơ cấu tín dụng được chuyển đổi một cách căn bản từ hoạt động chính sách (cho vay theo kế hoạch Nhà nước) là chủ yếu sang cho vay thương mại. Một trong những mục tiêu BIDV đặt ra là đạt được sự thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu khách hàng. Từ năm 2005, BIDV đã xác định mục tiêu ưu tiên phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Đây là một bước chuyển biến phù hợp với điều kiện trong lĩnh vực tín dụng xuất hiện ngày càng nhiều ngân hàng cùng tham gia cạnh tranh và DNNVV đang trở thành đối tượng khách hàng nhiều tiềm năng.

Ở Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới, DNNVV đang ngày càng khẳng định vai trò đối với nền kinh tế. Theo thống kê, DNNVV chiếm tới 95% trong tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, đóng góp trên 40% GDP, thu hút hơn 50% tổng số lao động, chiếm 17,26% tổng nộp ngân sách nhà nước. Điều quan trọng là DNNVV có vai trò to lớn trong mối quan hệ gắn kết với các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác tiềm năng đất nước.

Nh÷ng n¨m gÇn ®©y, chóng ta ®• b¾t ®Çu nhËn thøc vµ quan t©m ®Õn tÇm quan träng cña DNNVV, thể hiện trong các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta như: Hiến pháp 1992, Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2000) đã chính thức thức thừa nhận và tạo điều kiện bình đẳng về pháp lý cho hoạt động của DNNVV; Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; Chỉ thị 40/2005/CT-TTg ngày 16/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; Quyết định 236/2006/QĐ-TTg ngày 23/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Kế hoạch phát triển DNNVV 2005-2010. Chính phủ cũng không ngừng có những bước tiến tích cực trong việc tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ các nước có DNNVV hoạt động hiêu quả, thông qua các cuộc hội thảo trong và ngoài nước, và khuyến khích các dự án phát triển DNNVV ở nước ta. Ngµy 29/11/2000, tại Hà nội, Ngân hàng thế giới (WB) đã công bố bản báo cáo: “Việt Nam tiến vào thế kỷ 21” với đề xuất đưa ra 6 trụ cột của chiến lược phát triển nền kinh tế Việt nam và trụ cột đầu tiên là: “Tạo dựng môi trường giúp đỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV”.

Mặc dù vậy, với đặc thù và nhiều bất lợi, DNNVV chịu nhiều tác động tiêu cực khi nền kinh tế có những biến động lớn. Trong những năm gần đây, khi Việt Nam đã tham gia hội nhập quốc tế, các DNNVV Việt Nam vẫn đang gặp phải rất nhiều thách thức, trong đó khó khăn lớn nhất là thiếu vốn. Kênh huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp là các ngân hàng thương mại, tuy nhiên, phần lớn tín dụng tập trung vào các doanh nghiệp lớn, vì vậy các DNNVV phải huy động vốn từ các nguồn không chính thức như: vốn tiết kiệm của chủ doanh nghiệp, vốn vay cá nhân thông qua các mối quan hệ thân tín, vay vốn của nhau với lãi suất cao hơn 3 - 6 lần so với lãi suất ngân hàng. Ngoài ra, tuy lãi suất vay ngân hàng thấp nhưng các thủ tục vay rất phức tạp với những quy định khắt khe về tài sản thế chấp và xem xét tín khả thi của dự án khiến cho DNNVV càng khó tiếp cận nguồn vốn vay và dễ lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng.

Sự chuyển dịch cơ cấu khách hàng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, trong đó có việc tập trung nhiều hơn vào các DNNVV xuất phát từ sự nhận thức rõ vai trò, tiềm năng và điều kiện khó khăn về vốn của các doanh nghiệp này. Đồng thời, trong điều kiện phát triển của DNNVV Việt Nam hiện nay, BIDV cũng nhận thấy nhiều lợi ích thiết thực từ việc phát triển tín dụng đối với DNNVV. Tuy Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam mở rộng quan hệ tín dụng với đối tượng khách hàng này chậm hơn nhiều ngân hàng thương mại khác nhưng với tiềm năng và uy tín của mình, BIDV có nhiều cơ hội thành công nếu có những phương hướng, giải pháp đúng đắn.

 

doc125 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tÝn dông ®èi víi doanh nghiÖp nhá vµ võa t¹i ng©n hµng ®Çu t­ vµ ph¸t triÓn ViÖt Nam Hµ Néi - 2009 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 6 1.1. Sự cần thiết phát triển tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 6 1.2. Hình thức và đặc điểm tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 22 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 32 Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 40 2.1. Tổng quan hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 40 2.2. Thực trạng tiếp cận tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 47 2.3. Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 56 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 81 3.1. Phương hướng mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 81 3.2. Các giải pháp phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 84 KẾT LUẬN 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110  DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Agreement) BIDV : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (Bank of Investment and Development) BLC1 : Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam CTTC : Cho thuê tài chính DNNN : Doanh nghiệp nhà nước DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh DNTN : Doanh nghiệp tư nhân DNNVV : Doanh nghiệp nhỏ và vừa NHNN : Ngân hàng nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại TDNH : Tín dụng ngân hàng TMCP : Thương mại cổ phần TNHH : Trách nhiệm hữu hạn VCCI : Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam WTO : Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của BIDV giai đoạn 2005-2008 42 Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn huy động của BIDV giai đoạn 2006-2008 44 Bảng 2.3: Số lượng DNNVV đăng ký kinh doanh mới từ năm 2000 47 Bảng 2.4: Tổng vốn đầu tư của các DNNVV (năm 2002) 49 Bảng 2.5: Kết quả hoạt động tín dụng đối với các DNNVV 53 Bảng 2.6: Khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của DNNVV 55 Bảng 2.7: Tình hình dư nợ đối với DNNVV của BIDV 56 Bảng 2.8: Cơ cấu dư nợ đối với DNNVV trong tổng dư nợ của BIDV 57 Bảng 2.9: Tình hình dư nợ đối với DNNVV theo thời hạn 58 Bảng 2.10: Tình hình dư nợ tín dụng đối với DNNVV theo thành phần kinh tế 59 Bảng 2.11: Vòng quay vốn tín dụng đối với DNNVV 61 Bảng 2.12: Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNVV tại Sở giao dịch 62 Bảng 2.13: Tỷ lệ nợ khó đòi của các DNNVV tại BIDV 64 Bảng 2.14: Cơ cấu khách hàng DNNVV của BLC1 66 Bảng 2.15: Tỷ lệ nợ quá hạn DNNVV theo loại hình doanh nghiệp thuê tại BLC1 năm 2008 67 Bảng 2.16: Cơ cấu tài sản cho thuê tài chính đối với DNNVV của BLC1 68 Bảng 3.1: Phân loại khách hàng 93 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 2.1: Tổng tài sản của BIDV giai đoạn 2004 - 2008 42 Biểu đồ 2.2: Lợi nhuận trước thuế của BIDV 2004 - 2008 43 Biểu đồ 2.3: Vốn chủ sở hữu của BIDV 2004 -2008 44 Biểu đồ 2.4: Tăng trưởng tín dụng của BIDV qua các năm 46 Biểu đồ 2.5: Mức gia tăng dư nợ CTTC đối với DNNVV của BLC1 giai đoạn 2001-2008 66 Biểu đồ 2.6: Nợ quá hạn DNNVV theo loại hình doanh nghiệp thuê của BLC1 năm 2008 67 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) được thành lập ngày 26/4/1957, là một trong những ngân hàng lớn nhất ở Việt Nam hiện nay. Trước năm 2000, ngân hàng chủ yếu tập trung vào các dự án lớn, các Tổng công ty lớn của Nhà nước, nên thường được biết đến như là một ngân hàng của Chính phủ. Đến nay, trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trường, ngân hàng đã có những định hướng mới trong chiến lược hoạt động, trong đó có hoạt động tín dụng. Giai đoạn 2001-2005, cơ cấu tín dụng được chuyển đổi một cách căn bản từ hoạt động chính sách (cho vay theo kế hoạch Nhà nước) là chủ yếu sang cho vay thương mại. Một trong những mục tiêu BIDV đặt ra là đạt được sự thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu khách hàng. Từ năm 2005, BIDV đã xác định mục tiêu ưu tiên phát triển tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Đây là một bước chuyển biến phù hợp với điều kiện trong lĩnh vực tín dụng xuất hiện ngày càng nhiều ngân hàng cùng tham gia cạnh tranh và DNNVV đang trở thành đối tượng khách hàng nhiều tiềm năng. Ở Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới, DNNVV đang ngày càng khẳng định vai trò đối với nền kinh tế. Theo thống kê, DNNVV chiếm tới 95% trong tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam, đóng góp trên 40% GDP, thu hút hơn 50% tổng số lao động, chiếm 17,26% tổng nộp ngân sách nhà nước. Điều quan trọng là DNNVV có vai trò to lớn trong mối quan hệ gắn kết với các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác tiềm năng đất nước. Nh÷ng n¨m gÇn ®©y, chóng ta ®· b¾t ®Çu nhËn thøc vµ quan t©m ®Õn tÇm quan träng cña DNNVV, thể hiện trong các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta như: Hiến pháp 1992, Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2000) đã chính thức thức thừa nhận và tạo điều kiện bình đẳng về pháp lý cho hoạt động của DNNVV; Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; Chỉ thị 40/2005/CT-TTg ngày 16/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; Quyết định 236/2006/QĐ-TTg ngày 23/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Kế hoạch phát triển DNNVV 2005-2010. Chính phủ cũng không ngừng có những bước tiến tích cực trong việc tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ các nước có DNNVV hoạt động hiêu quả, thông qua các cuộc hội thảo trong và ngoài nước, và khuyến khích các dự án phát triển DNNVV ở nước ta. Ngµy 29/11/2000, tại Hà nội, Ngân hàng thế giới (WB) đã công bố bản báo cáo: “Việt Nam tiến vào thế kỷ 21” với đề xuất đưa ra 6 trụ cột của chiến lược phát triển nền kinh tế Việt nam và trụ cột đầu tiên là: “Tạo dựng môi trường giúp đỡ các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV”. Mặc dù vậy, với đặc thù và nhiều bất lợi, DNNVV chịu nhiều tác động tiêu cực khi nền kinh tế có những biến động lớn. Trong những năm gần đây, khi Việt Nam đã tham gia hội nhập quốc tế, các DNNVV Việt Nam vẫn đang gặp phải rất nhiều thách thức, trong đó khó khăn lớn nhất là thiếu vốn. Kênh huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp là các ngân hàng thương mại, tuy nhiên, phần lớn tín dụng tập trung vào các doanh nghiệp lớn, vì vậy các DNNVV phải huy động vốn từ các nguồn không chính thức như: vốn tiết kiệm của chủ doanh nghiệp, vốn vay cá nhân thông qua các mối quan hệ thân tín, vay vốn của nhau với lãi suất cao hơn 3 - 6 lần so với lãi suất ngân hàng. Ngoài ra, tuy lãi suất vay ngân hàng thấp nhưng các thủ tục vay rất phức tạp với những quy định khắt khe về tài sản thế chấp và xem xét tín khả thi của dự án khiến cho DNNVV càng khó tiếp cận nguồn vốn vay và dễ lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Sự chuyển dịch cơ cấu khách hàng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, trong đó có việc tập trung nhiều hơn vào các DNNVV xuất phát từ sự nhận thức rõ vai trò, tiềm năng và điều kiện khó khăn về vốn của các doanh nghiệp này. Đồng thời, trong điều kiện phát triển của DNNVV Việt Nam hiện nay, BIDV cũng nhận thấy nhiều lợi ích thiết thực từ việc phát triển tín dụng đối với DNNVV. Tuy Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam mở rộng quan hệ tín dụng với đối tượng khách hàng này chậm hơn nhiều ngân hàng thương mại khác nhưng với tiềm năng và uy tín của mình, BIDV có nhiều cơ hội thành công nếu có những phương hướng, giải pháp đúng đắn. Vì vậy, tác giả luận văn lựa chọn vấn đề “Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn từ việc tổng kết lý luận và phân tích thực trạng chuyển biến hoạt động tín dụng đối với DNNVV tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để tìm ra những giải pháp mang lại lợi ích thiết thực cho cả ngân hàng và DNNVV. 2. Tình hình nghiên cứu Nhận thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp phát triển DNNVV ở nước ta, đặc biệt là giải pháp tăng cường hỗ trợ TDNH, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu dưới những góc độ và quy mô khác nhau như: công trình của GS. TS Nguyễn Đình Hương - “Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002; công trình nghiên cứu “Chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam” và “Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam đến năm 2005”do PGS, PTS Nguyễn Cúc chủ trì; công trình của hai tác giả Vũ Quốc Tuấn và Hoàng Thu Hoà - “Phát triển DNNVV, kinh nghiệm nước ngoài và phát triển DNNVV ở Việt Nam”, Nxb thống kê, 2001; Luận án Tiến sĩ kinh tế “Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”, do tiến sĩ Phạm Văn Hồng thực hiện năm 2007. Ngoài ra, đã có nhiều dự án liên quan như: dự án của Uỷ ban tài trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ về “Dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh đối sự phát triển của các DNNVV”, 1997; Dự án USNIE/95/004 về “Hoàn thiện chính sách vĩ mô phát triển DNNVV”; Bản “Nghiên cứu xúc tiến DN công nghiệp vừa và nhỏ” của Viện nghiên cứu Nomura, tháng 10/1999. Đối với hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, đã có luận án Tiến sĩ kinh tế của TS. Trần Văn Hiệu - “Xây dựng nền khách hàng bền vững tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” (2008) và một số luận văn thạc sỹ khác nghiên cứu ở góc độ nghiệp vụ ngân hàng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị về hoạt động tín dụng đối với DNNVV tại BIDV vì hoạt động này chỉ được triển khai mạnh mẽ tại ngân hàng từ năm 2005 đến nay. Vì vậy việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm nhằm phát triển tín dụng đối với DNNVV cho tương xứng với tiềm năng của BIDV là cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển tín dụng ngân hàng nói chung và của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói riêng đối với các DNNVV. Từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đối với nhóm doanh nghiệp này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ sự cần thiết phát triển TDNH đối với DNNVV ở nước ta phù hợp với những đặc thù của doanh nghiệp. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng tình hình tiếp cận tín dụng ngân hàng của DNNVV nước ta từ khi có Luật doanh nghiệp năm 2000 đến nay, tìm hiểu cụ thể hoạt động tín dụng của BIDV đối với DNNVV. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp phát triển tín dụng đối với DNNVV tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu khái quát tình hình phát triển và tiếp cận tín dụng ngân hàng của DNNVV có đăng ký kinh doanh ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay, từ đó tập trung tìm hiểu hoạt động tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đối với DNNVV giai đoạn 2005 - 2009. 5. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp trừu tượng hoá khoa học; phương pháp phân tích, tổng hợp. 6. Đóng góp của luận văn Về lý luận, luận văn hệ thống hoá những nội dung cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với DNNVV, gắn liền với những đặc thù của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay, đồng thời làm rõ sự cần thiết phát triển tín dụng ngân hàng đối với DNNVV nước ta. Về thực tiễn, luận văn khái quát tình hình phát triển và tiếp cận tín dụng ngân hàng của DNNVV Việt Nam, từ đó đi sâu nghiên cứu sự phát triển tín dụng đối với DNNVV tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - một trong những trường hợp điển hình của ngân hàng thương mại quốc doanh đang trong quá trình hướng tới nhóm khách hàng DNNVV, tìm ra những bất cập và đề xuất giải pháp khắc phục. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.1. SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm, hình thức của tín dụng ngân hàng 1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu [7]. Theo quan điểm này, phạm trù tín dụng có 3 nội dung chủ yếu là: tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả. Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hóa. Quá trình đó được thể hiện qua 3 giai đoạn sau: Thứ nhất, phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này, giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên nhận được giá trị và cũng chỉ một bên nhượng đi giá trị. Thứ hai, sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sau khi nhận được giá trị vốn tín dụng, họ được quyền sử dụng giá trị đó để thỏa mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của mình. Tuy nhiên, người đi vay chỉ được quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định mà không được quyền sở hữu về giá trị đó. Thứ ba, đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kì sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay. Có nhiều hình thức tín dụng như: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế…Trong đó, tín dụng ngân hàng là hình thức phổ biến và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động của mỗi ngân hàng. “Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định”[15]. Như vậy, tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân hàng một bên là khách hàng, trong đó ngân hàng chuyển tiền hay tài sản cho khách hàng với những thoả thuận hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định. Tín dụng ngân hàng bao gồm các hoạt động chính là: cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Tín dụng ngân hàng khác với các loại hình tín dụng khác là ngân hàng cho khách hàng vay từ nguồn vốn nhận gửi từ dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức khác…và hưởng lợi từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy tín dụng ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cơ bản. 1.1.1.2. Hình thức tín dụng ngân hàng Căn cứ thời hạn tín dụng có thể phân chia thành các loại tín dụng sau: Một là, cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục đích của loại cho vay này thường là tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động Hai là, cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định. Ba là, cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, loại cho vay này thường nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án lớn. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, có các loại tín dụng sau: Thứ nhất, cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay. Thứ hai, cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba khác. Dựa vào phương thức vay, tín dụng có thể chia thành hai loại là: cho vay theo món vay và cho vay theo hạn mức tín dụng. Căn cứ vào phương thức hoàn trả vốn vay, có các loại tín dụng sau: Một là, cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn. Hai là, cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp Ba là, Cho vay trả nợ nhiều lần phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay. Việc lựa chọn hình thức vay phụ thuộc vào điều kiện sản xuất kinh doanh của khách hàng và mức độ đáp ứng yêu cầu quy định của ngân hàng đặt ra. 1.1.2. Vai trò và đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 1.1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa Các quốc gia sử dụng tiêu chí khác nhau để phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hiện nay có hai nhãm tiªu chÝ phæ biÕn là: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNNVV như: trình độ chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít…Tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế, do đó ít được sử dụng. Tiêu chí định lượng gồm các tiêu thức như: số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Ở các nước, những tiêu chí này rất đa dạng, trong 12 nước và khu vực thuộc APEC, tiêu chí số lao động được sử dụng phổ biến nhất (11/12 nước sử dụng, chiếm 91,67%). Các tiêu chí khác tuỳ theo điều kiện từng nước: vốn đầu tư (3/12 nước sử dụng, chiếm 25%), tổng giá trị tài sản (4/12 nước sử dụng, chiếm 33,33%, doanh thu (4/12 nước sử dụng, chiếm 33,33%), tỷ lệ vốn góp (1/12 nước sử dụng, chiếm 8,33%). Số lượng tiêu chí chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba tiêu chí phân loại. Việt Nam phân loại DNNVV theo tiêu chí phổ biến nhất là số lao động thường xuyên và vốn sản xuất. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 quy định: “DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo tiêu chí này thì hầu hết doanh nghiệp của nước ta đều là DNNVV, đối tượng DNNVV được đề cập tới bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước, hoặc hộ kinh doanh cá thể thoả mãn các tiêu chí của Nghị định 90. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có tiêu chí xác định DNNVV để đáp ứng nhu cầu quản lý, điều hành như sau: Đối với doanh nghiệp đủ điều kiện xếp hạng trên Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV ở mức quy mô vừa (điểm quy mô từ 12 đến 21 điểm) và quy mô nhỏ (điểm quy mô dưới 12 điểm). Đối với doanh nghiệp không đủ điều kiện xếp hạng trên Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV: DNNVV được xác định theo các tiêu chí pháp luật quy định (hiện nay theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ). 1.1.2.2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nước tư bản có nền đại công nghiệp phát triển gắn với những công ty, tập đoàn kinh tế lớn - vốn khởi đầu từ những xí nghiệp, công trường thủ công sản xuất nhỏ. Trong quá trình phát triển, sự tích tụ và tập trung vốn cùng với quá trình cạnh tranh gay gắt giữa những xí nghiệp trong nước và ngoài nước đã tạo ra những tập đoàn kinh tế lớn như ngày nay. Tuy vậy, ngay cả ở các nước tư bản phát triển, các DNNVV vẫn giữ một vị trí quan trọng. Sau mỗi thời kỳ suy thoái kinh tế, khu vực DNNVV luôn trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, ổn định kinh tế, phòng ngừa nguy cơ khủng hoảng. Đặc biệt, khi cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng phát triển đã tạo điều kiện cho các DNNVV nhiều cơ hội tập trung kỹ thuật, có khả năng sản xuất các sản phẩm không thua kém các doanh nghiệp lớn. Mặc khác, xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay, các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh về chất lượng và công nghệ. Trong điều kiện này, lợi thế của các doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ bị giảm sút. Sự phát triển của chuyên môn hoá và hợp tác hoá đã làm phát triển mô hình sản xuất kiểu vệ tinh, trong đó các DNNVV là vệ tinh của doanh nghiệp lớn. Ở Việt Nam, vai trò của các DNNVV đối với sự phát triển kinh tế - xã hội thể hiện như sau: Thứ nhất, DNNVV đóng góp đáng kể vào tổng sản lượng và tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Hiện nước ta có trên 350.000 doanh nghiệp, trong đó DNNVV chiếm 95% với tổng số vốn khoảng 85 tỷ USD, hàng năm đóng góp hơn 40% GDP, sử dụng trên 90% lao động có việc làm thường xuyên, tạo thêm 50% việc làm mới - số liệu thực tế này đã cho thấy sự đóng góp của DNNVV đối với nền kinh tế. Với yêu cầu về vốn đăng ký thành lập không lớn nên DNNVV thành lập dễ dàng, chiếm tỷ lệ áp đảo trong tổng số doanh nghiệp, tuy mỗi DNNVV không sử dụng số lượng lớn lao động nhưng với một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nên bộ phận doanh nghiệp này mỗi năm đã giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động xã hội. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, vai trò của DNNVV xét trên góc độ giải quyết việc làm càng thể hiện rõ nét do các doanh nghiệp lớn phải cắt giảm lao động nhằm giảm chi phí sản xuất ứng phó với điều kiện thị trường bị thu hẹp. Ngược lại, các DNNVV với đặc tính linh hoạt, dễ thích ứng với thay đổi của thị trường nên vẫn có thể duy trì hoạt động, vì vậy, Hội đồng doanh nghiệp thế giới khẳng định: “DNNVV là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi nền kinh tế suy thoái”. Hiện nay, mặc dù kinh tế thế giới đang trên đà suy thoái, các DNNVV Việt Nam vẫn khá lạc quan về tăng trưởng kinh tế, kế hoạch đầu tư vốn, kế hoạch tuyển dụng và phát triển thương mại quốc tế. Khảo sát gần đây cho thấy phần lớn các DNNVV sẽ duy trì nhân sự hiện tại, trong đó 55% sẽ giữ nguyên nhân sự và 45% sẽ tăng thêm nhân sự. Thứ hai, DNNVV là trụ cột kinh tế của địa bàn tại chỗ. Nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế lớn thì DNNVV có mặt ở khắp các địa phương, tận dụng được cơ hội khai thác tiềm năng và thế mạnh vốn có của từng địa bàn nơi đóng trụ sở sản xuất kinh doanh. Sự tồn tại và hoạt động của DNNVV đã góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, cân đối ở các vùng, miền, giải quyết được vấn đề an sinh xã hội của địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Đặc biệt là đối với các làng nghề truyền thống, các DNNVV hoạt động sẽ mở rộng quy mô sản xuất, duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống, tập hợp và đào tạo lực lượng lao động tay nghề giỏi, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình khôi phục và phát triển làng nghề theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Thứ ba, DNNVV có khả năng thu hút, tận dụng các nguồn lực xã hội một cách có hiệu quả. Đối với nguồn lực vốn: Vốn là yếu tố có vai trò tiên quyết trong hoạt động của các DNNVV. Để khởi sự và duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh, các DNNVV không chỉ vay vốn từ ngân hàng mà còn huy động vốn trong dân cư thông qua các mối quan hệ cá nhân của doanh nghiệp. Vốn cho một DNNVV tuy không nhiều nhưng thường xuyên và số lượng DNNVV rất lớn, vì vậy, thông qua hoạt động của DNNVV, một lượng lớn tiền nhàn rỗi đã được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo nên vòng chu chuyển vốn sinh lời có ích cho bản thân doanh nghiệp và nền kinh tế. Đối với nguồn lực lao động: Phần lớn các DNNVV hoạt động trong các ngành nghề thu hút được nhiều lao động như: thương mại, dịch vụ, sản xuất hàng tiêu dùng, chế biến nông sản, thủ công mỹ nghệ, xây dựng…Yêu cầu về trình độ lao động không cao, do đó tận dụng được nguồn lao động thủ công với chi phí thấp. Mặt khác, trong quá trình sử dụng, DNNVV đồng thời đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động. Về kỹ thuật và nguồn nguyên vật liệu: Phần lớn DNNVV có kỹ thuật sản xuất bán thủ công, thiết bị chủ yếu được sản xuất trong nước phù hợp với điều kiện trình độ lao động phổ thông đang chiếm số lượng lớn ở nước ta. DNNVV phân bố ở hầu hết các địa phương nên có khả năng khai thác được nguồn nguyên liệu sẵn có, giảm bớt chi phí và thời gian vận chuyển. Thứ tư, DNNVV tạo sự linh hoạt, năng động và có khả năng ổn định nền kinh tế. Về lý thuyết, DNNVV dễ điều chỉnh hoạt động của mình để đáp ứng đa dạng nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ. Mặt khác, ở phần lớn các nền kinh tế, các DNNVV là những nhà thầu phụ, gia công, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ, gia công tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định cần thiết, vì vậy, DNNVV được ví là thanh giảm sóc cho nền kinh tế. Sự cạnh tranh không ngừng của các DNNVV là tất yếu, từ đó thanh lọc được các doanh nghiệp yếu kém, vừa nâng cao chất lượng sản phẩm cung ứng cho thị trường, hạn chế khả năng lũng đoạn thị trường của các doạnh nghiệp lớn. Thứ năm, DNNVV có vai trò quan trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông, góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn hàng xuất khẩu. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, hàng hoá từ khâu sản xuất đến tiêu dùng phải qua khâu trun

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBản sửa để in 23.10.doc1.doc
  • docbia.doc
  • docMục luc lan 2.doc
  • docTai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan