Sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta ngày càng được đẩy mạnh, càng được phát triển thì càng có nhiều yêu cầu bức xúc được đặt ra và phải được giải quyết nhanh có hiệu quả. Một trong những yêu cầu bức xúc đó của cả nước nói chung và của Hà Nội nói riêng là vấn đề giải phóng mặt bằng để mở mang phát triển đô thị, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch-dịch vụ, khu dân cư, mạng lưới giao thông, bệnh viện, trường học, các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình khác phục vụ cho sự phát triển kinh tế- xã hội cũng như đảm bảo an ninh, quốc phòng và nâng cao đời sống nhân dân ngày càng tăng.
Để tiến hành thực hiện các dự án trên đòi hỏi phải có đất đai. Như ta đã biết đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện sinh tồn và phát triển của mọi sinh vật trên trái đất trong đó có con người. Đối với hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia, đất đai là đầu vào không thể thiếu được. Đối với nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế được. Nó vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động. Đối với các ngành khác như công nghiệp, dịch vụ, xây dựng đất đai là trụ sở, là điểm đứng chân, là nơi cung cấp nguyên liệu để tiến hành những thao tác, những hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, đất đai có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng, nó tham gia vào tất cả các lĩnh vực. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, vai trò và vị trí của đất đai càng trở nên quan trọng hơn, đặc biệt khi nước ta bước vào công cuộc CNH- HĐH cùng với xu thế hợp tác hoá, toàn cầu hoá của đất nước. Nhu cầu sử dụng đất đai cho các dự án đầu tư phát triển trong những năm gần đây không ngừng tăng lên. Trong khi đó, diện tích đất đai có hạn, và ngày càng trở nên hạn hẹp đối với nhu cầu ngày càng tăng của con người và thực tế khả năng đáp ứng của đất đai đã không đủ. Chính vì vậy việc sử dụng quỹ đất đai hợp lý và có hiệu quả đang được các cấp, các ngành rất quan tâm. Đồng thời việc thu hồi, bố trí, sắp xếp lại đất đai đáp ứng những nhu cầu trên một cách khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài và bền vững là một vấn đề lớn và cấp thiết.
Để chuẩn bị cho các dự án đầu tư phát triển thì việc thu hồi đất đã giao cho người sử dụng ổn định và lâu dài là vấn đề không tránh khỏi và gây nên những tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội.
Tiến độ thi công của các dự án nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào thời gian thu hồi đất của Nhà nước. Để tiến hành thu hồi đất phục vụ cho lợi ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trong đó có các dự án đầu tư phát triển Nhà nước phải thực hiện công tác đền bù thiệt hại GPMB và tái định cư. Khi công tác này được thực hiện tốt thì mới đảm bảo tiến độ bàn giao mặt bằng kịp thời cho các dự án. Công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất là một vấn đề phức tạp mang tính chất kinh tế- chính trị- xã hội tổng hợp và được sự quan tâm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân. Vấn đề đền bù thiệt hại về đất thể hiện bản chất kinh tế các mối quan hệ về đất đai đó là mối quan hệ Nhà nước với các tổ chức và cá nhân, giữa các tổ chức kinh tế này với tổ chức kinh tế khác, giữa các cá nhân với nhau trên cơ sở quy định của pháp luật.
Những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp tạo cơ sở pháp lý quan trọng đưa công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng đi vào trật tự, nề nếp, đồng thời đã đạt được những kết quả nhất định tạo điều kiện cho kinh tế- xã hội phát triển, đổi thay từng ngày. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề GPMB thường xuyên diễn ra những ách tắc, khó khăn, trở ngại, có những nơi gây cản trở thành điểm nóng, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thi công các chương trình, dự án và hạn chế nhịp độ phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Vì vậy, có thể thấy rằng vấn đề đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là một vấn đề cực kỳ phức tạp và mang tính thời sự cấp bách.
Đối với quận cầu giấy- một quận mới thành lập của Thủ đô Hà Nội cũng nằm trong tình trạng chung đó của cả nước, nghĩa là cũng đã và đang giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của kinh tế- xã hội đặt ra trong đó có vấn đề phải làm sao cho công tác GPMB ngày càng đạt được hiệu quả tốt hơn theo đúng quan điểm đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước góp phần xây dựng Hà Nội trở thành thủ đô văn minh, hiện đại trong thế kỷ XXI.
Xuất phát từ những nhu cầu bức xúc, cấp thiết trên, qua một thời gian thực tập tốt nghiệp tại Ban quản lý dự án Học viện Quốc phòng, được sự hướng dẫn tận tình, sự giúp đỡ của cơ quan nơi thực tập và các thầy cô đặc biệt là Th.s Vũ Thị Thảo đã giúp hoàn thành tốt Luận văn tốt nghiệp: "Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác đền bù thiệt hại GPMB ở quận cầu giấy- Thành phố Hà Nội qua dự án nâng cấp, cải tạo và xây dựng Học viện Quốc phòng".
Mục tiêu của đề tài này là nghiên cứu cơ sở của việc đền bù thiệt hại GPMB (bao gồm khái niệm, bản chất, sự cần thiết, các nhân tố ảnh hưởng ), nghiên cứu thực trạng công tác đền bù thiệt hại GPMB (bao gồm: tình hình thực hiện, những khó khăn, vướng mắc trong công tác này) và trên cơ sở đó đưa ra những nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công tác đền bù GPMB ở quận cầu giấy hiện nay và trong thời gian tới.
Các phương pháp được sử dụng chủ yếu trong quá trình nghiên cứu là:
- Phương pháp thu thập xử lý thông tin, số liệu
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp duy vật lịch sử.
Có thể nói rằng công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng là một công việc hết sức phức tạp, có nhiều vấn đề cần giải quyết đồng thời cũng là công việc vô cùng quan trọng.
Luận văn này chỉ đề cập đến một số vấn đề cơ bản trong công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng ở quận cầu giấy. Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
ChươngI: Cơ sở lý luận về công tác đền bù thiệt hại GPMB
ChươngII: Thực trạng công tác đền bù thiệt hại GPMB ở quận cầu giấy
ChươngIII: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác đền bù thiệt hại GPMB.
121 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác đền bù thiệt hại giấy phép mua bán ở quận Cầu Giấy- Thành phố Hà Nội qua dự án nâng cấp, cải tạo và xây dựng Học viện Quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta ngày càng được đẩy mạnh, càng được phát triển thì càng có nhiều yêu cầu bức xúc được đặt ra và phải được giải quyết nhanh có hiệu quả. Một trong những yêu cầu bức xúc đó của cả nước nói chung và của Hà Nội nói riêng là vấn đề giải phóng mặt bằng để mở mang phát triển đô thị, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch-dịch vụ, khu dân cư, mạng lưới giao thông, bệnh viện, trường học, các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình khác phục vụ cho sự phát triển kinh tế- xã hội cũng như đảm bảo an ninh, quốc phòng và nâng cao đời sống nhân dân ngày càng tăng.
Để tiến hành thực hiện các dự án trên đòi hỏi phải có đất đai. Như ta đã biết đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện sinh tồn và phát triển của mọi sinh vật trên trái đất trong đó có con người. Đối với hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia, đất đai là đầu vào không thể thiếu được. Đối với nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế được. Nó vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động. Đối với các ngành khác như công nghiệp, dịch vụ, xây dựng… đất đai là trụ sở, là điểm đứng chân, là nơi cung cấp nguyên liệu… để tiến hành những thao tác, những hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, đất đai có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng, nó tham gia vào tất cả các lĩnh vực. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, vai trò và vị trí của đất đai càng trở nên quan trọng hơn, đặc biệt khi nước ta bước vào công cuộc CNH- HĐH cùng với xu thế hợp tác hoá, toàn cầu hoá của đất nước. Nhu cầu sử dụng đất đai cho các dự án đầu tư phát triển trong những năm gần đây không ngừng tăng lên. Trong khi đó, diện tích đất đai có hạn, và ngày càng trở nên hạn hẹp đối với nhu cầu ngày càng tăng của con người và thực tế khả năng đáp ứng của đất đai đã không đủ. Chính vì vậy việc sử dụng quỹ đất đai hợp lý và có hiệu quả đang được các cấp, các ngành rất quan tâm. Đồng thời việc thu hồi, bố trí, sắp xếp lại đất đai đáp ứng những nhu cầu trên một cách khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài và bền vững là một vấn đề lớn và cấp thiết.
Để chuẩn bị cho các dự án đầu tư phát triển thì việc thu hồi đất đã giao cho người sử dụng ổn định và lâu dài là vấn đề không tránh khỏi và gây nên những tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội.
Tiến độ thi công của các dự án nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào thời gian thu hồi đất của Nhà nước. Để tiến hành thu hồi đất phục vụ cho lợi ích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trong đó có các dự án đầu tư phát triển Nhà nước phải thực hiện công tác đền bù thiệt hại GPMB và tái định cư. Khi công tác này được thực hiện tốt thì mới đảm bảo tiến độ bàn giao mặt bằng kịp thời cho các dự án. Công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất là một vấn đề phức tạp mang tính chất kinh tế- chính trị- xã hội tổng hợp và được sự quan tâm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân. Vấn đề đền bù thiệt hại về đất thể hiện bản chất kinh tế các mối quan hệ về đất đai đó là mối quan hệ Nhà nước với các tổ chức và cá nhân, giữa các tổ chức kinh tế này với tổ chức kinh tế khác, giữa các cá nhân với nhau trên cơ sở quy định của pháp luật.
Những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp tạo cơ sở pháp lý quan trọng đưa công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng đi vào trật tự, nề nếp, đồng thời đã đạt được những kết quả nhất định tạo điều kiện cho kinh tế- xã hội phát triển, đổi thay từng ngày. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề GPMB thường xuyên diễn ra những ách tắc, khó khăn, trở ngại, có những nơi gây cản trở thành điểm nóng, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thi công các chương trình, dự án và hạn chế nhịp độ phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Vì vậy, có thể thấy rằng vấn đề đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là một vấn đề cực kỳ phức tạp và mang tính thời sự cấp bách.
Đối với quận cầu giấy- một quận mới thành lập của Thủ đô Hà Nội cũng nằm trong tình trạng chung đó của cả nước, nghĩa là cũng đã và đang giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của kinh tế- xã hội đặt ra trong đó có vấn đề phải làm sao cho công tác GPMB ngày càng đạt được hiệu quả tốt hơn theo đúng quan điểm đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước góp phần xây dựng Hà Nội trở thành thủ đô văn minh, hiện đại trong thế kỷ XXI.
Xuất phát từ những nhu cầu bức xúc, cấp thiết trên, qua một thời gian thực tập tốt nghiệp tại Ban quản lý dự án Học viện Quốc phòng, được sự hướng dẫn tận tình, sự giúp đỡ của cơ quan nơi thực tập và các thầy cô đặc biệt là Th.s Vũ Thị Thảo đã giúp hoàn thành tốt Luận văn tốt nghiệp: "Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác đền bù thiệt hại GPMB ở quận cầu giấy- Thành phố Hà Nội qua dự án nâng cấp, cải tạo và xây dựng Học viện Quốc phòng".
Mục tiêu của đề tài này là nghiên cứu cơ sở của việc đền bù thiệt hại GPMB (bao gồm khái niệm, bản chất, sự cần thiết, các nhân tố ảnh hưởng…), nghiên cứu thực trạng công tác đền bù thiệt hại GPMB (bao gồm: tình hình thực hiện, những khó khăn, vướng mắc trong công tác này) và trên cơ sở đó đưa ra những nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công tác đền bù GPMB ở quận cầu giấy hiện nay và trong thời gian tới.
Các phương pháp được sử dụng chủ yếu trong quá trình nghiên cứu là:
- Phương pháp thu thập xử lý thông tin, số liệu
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp duy vật lịch sử.
Có thể nói rằng công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng là một công việc hết sức phức tạp, có nhiều vấn đề cần giải quyết đồng thời cũng là công việc vô cùng quan trọng.
Luận văn này chỉ đề cập đến một số vấn đề cơ bản trong công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng ở quận cầu giấy. Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
ChươngI: Cơ sở lý luận về công tác đền bù thiệt hại GPMB
ChươngII: Thực trạng công tác đền bù thiệt hại GPMB ở quận cầu giấy
ChươngIII: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác đền bù thiệt hại GPMB.
Nội dung
Chương I
Cơ sở lý luận về công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng
I. Tính tất yếu của công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng
1. Các khái niệm cơ bản về đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng.
Đền bù có nghĩa là việc thanh toán bằng tiền hoặc bằng hiện vật để bù đắp những thiệt hại về đất đai, nhà cửa, thu nhập và các tài sản khác do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của dự án.
Đền bù thiệt hại được hiểu là việc bù đắp bằng tiền hoặc bằng hiện vật những thiệt hại về đất đai, nhà cửa, thu nhập và các tài sản khác do tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của dự án. Trong quá trình Nhà nước thu hồi đất, người bị thu hồi đất không chỉ bị thiệt hại về đất mà còn bị thiệt hại về các tài sản gắn liền với đất như các công trình kiến trúc, vườn tược, cây cối…. Vì vậy đền bù thiệt hại không chỉ là đền bù thiệt hại về đất mà còn đền bù thiệt hại cả về tài sản gắn trên đất.
Giải phóng mặt bằng là một khâu hay bộ phận của công tác thu hồi đất phục vụ quốc phòng, an ninh và các dự án phát triển kinh tế- xã hội, bao gồm các công đoạn: từ bồi thường cho các đối tượng sử dụng đất, giải toả các công trình trên đất, di chuyển người dân tạo lập mặt bằng cho triển khai các dự án đến việc hỗ trợ cho người bị thu hồi đất tái tạo chỗ ở, việc làm, thu nhập, ổn định cuộc sống.
Đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng có thể được hiểu là việc chi trả, bù đắp, những tổn thất về đất đai, những chi phí tháo dỡ, di chuyển nhà cửa, vật kiến trúc, công trình hạ tầng kỹ thuật, cây cối, hoa màu và chi phí để ổn định đời sống, sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp cho người sử dụng đất đai, sở hữu tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
2. Bản chất.
Về bản chất việc đền bù giải phóng mặt bằng chính là việc đền bù những thiệt hại, những tổn thất do việc thay đổi chức năng hay mục đích sử dụng giữa các loại đất gây ra. (Ví dụ: Từ đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất chưa sử dụng sang đất đô thị hoặc đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn sang đất chuyên dùng).
Việc đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng là công việc hết sức quan trọng và cần thiết do đó cần phải có quan điểm đúng đắn, lành mạnh và tạo điều kiện để công tác này phát triển tốt hơn
3. Sự cần thiết phải có công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng.
3.1. Công tác đền bù GPMB đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất đai, người sở hữu nhà ở cũng như của Nhà nước.
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động. Trong quá trình phát triển của xã hội, đất đai được sử dụng nhằm mục đích phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nên đất đai không thuộc sở hữu riêng của một ai mà là của chung toàn xã hội. Quỹ đất đai của nước ta ngày nay là thành quả của việc khai hoá, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ của bao nhiêu thế hệ. Do đó đất đai không phải của riêng một người mà nó là tài sản chung của toàn xã hội. Nhà nước là người đại diện thống nhất quản lý.
Theo điều 1 Luật đất đai năm 1993 viết: " Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất". Điều 2 viết: "Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có đất để sản xuất".
Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quyền sở hữu toàn dân thể hiện đó là quyền sở hữu về mặt pháp lý (Nhà nước đề ra và quy định trách nhiệm của mình cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất). Các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quyền sử dụng đất thực tế và phải thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt xét trên cả phương diện tự nhiên, kinh tế và xã hội. Vì vậy, Nhà nước phải nắm quyền sử dụng đất đai về mặt pháp lý, nắm quyền quản lý và quyền sở hữu đất đai. Nhà nước phải xây dựng chế độ sở hữu đất đai cho phù hợp với lợi ích của toàn xã hội nhằm tránh tình trạng đất đai để hoang hoá vô chủ, sử dụng lãng phí, không hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân từ đó đảm bảo đất đai có chủ sử dụng thực sự và cụ thể. Nhà nước giao quyền quản lý đất đai đồng thời đưa ra những quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể về quản lý và sử dụng đất đai.
Nhằm phát huy tốt hơn chức năng quản lý đất đai theo cơ chế mới, phù hợp với điều kiện mới của sự phát triển kinh tế- xã hội trong cơ chế thị trường, ổn định tình hình đất đai vốn rất phức tạp do lịch sử để lại. Luật đất đai cũng quy định khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng Nhà nước có trách nhiệm đền bù thiệt hại.
Như vậy, Luật đất đai năm 1993 đã quy định rõ quyền và lợi ích của người sử dụng đất cũng như trách nhiệm của Nhà nước khi thu hồi đất. Đất đai có vai trò vô cùng quan trọng đối với xã hội loài người. Do đó Nhà nước quy định các quyền và lợi ích của người sử dụng đất đai cũng như trách nhiệm phải đền bù thiệt hại khi thu hồi đất của Nhà nước đảm bảo mọi người đều có đất để sống và để sản xuất là điều kiện hết sức đúng đắn.
Pháp lệnh nhà ở ngày 26-3-1991 đã quy định: Công dân thực hiện quyền có nhà ở bằng việc tạo lập hợp pháp nhà ở cho mình hoặc thuê nhà ở của chủ sở hữu khác theo quy định của pháp luật. Nhà nước công nhận và bảo vệ quyền sở hữu nhà ở của các cá nhân và các chủ sở hữu khác. Nhà ở cũng là một trong những loại tài sản vô cùng quý giá của mỗi con người. Nhà ở là nơi để mỗi con người nghỉ ngơi, tránh nắng, mưa, bão là nơi làm việc, tiến hành sản xuất của cải vật chất, tái sản xuất sức lao động. Để xây dựng nhà cần một khoản tiền lớn, tốn kém nhiều công sức, hơn nữa nhà đất thường gắn liền với nhau nên khi Nhà nước thu hồi đất đồng thời thu hồi cả nhà trên đất đó. Vì vậy, công tác đền bù thiệt hại cho người sở hữu nhà ở là một tất yếu. Mặt khác bằng các quy định của mình Nhà nước xác định tính hợp pháp của đất đai nhà ở từ đó làm căn cứ xét đền bù thiệt hại tránh tình trạng đền bù sai, thiếu gây lãng phí tiền của của nhân dân.
3.2. Công tác đền bù thiệt hại GPMB giúp cho việc sử dụng đất đai hợp lý và có hiệu quả.
Khi thu hồi đất Nhà nước thực hiện đền bù bằng đất hoặc bằng tiền. Đền bù bằng tiền được xác định dựa trên cơ sở định giá đền bù và trên những quy định hướng dẫn của Chính phủ. Đền bù bằng đất là việc dùng đất đai đền bù cho người có đất bị thu hồi. Nguồn đất để đền bù gồm: quỹ đất chưa sử dụng, đất được khai hoang bằng vốn ngân sách, đất mới được tạo lập, đất dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ việc thu hồi, đất thu hồi từ những người sử dụng đất không đúng quy định và đất công ích.
Trường hợp đất bị thu hồi được quy định ở Điều 26- Luật đất đai năm 1993. Nhà nước thu hồi toàn bộ hoặc một phần đất đã giao sử dụng trong những trường hợp:
- Tổ chức, cá nhân bị giải thể, phá sản hoặc chuyển đi nơi khác
- Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước.
- Đất không sử dụng trong 12 tháng liền.
- Người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
- Đất sử dụng không đúng mục đích.
- Đất được giao không đúng thẩm quyền.
Đất công ích, được quy định trong Điều 45- Luật đất đai năm 1993 như sau: mỗi xã (phường, thị trấn) được để lại không quá 5% quỹ đất nông nghiệp của địa phương để phục vụ nhu cầu công ích của địa phương. Trên cơ sở quỹ đất này mà thực hiện đền bù đất cho người bị thu hồi, trên nguyên tắc đền bù đất đúng bằng diện tích bị thu hồi, đúng hạng đất, loại đất, mục đích sử dụng và tương ứng với giá trị ban đầu của đất. Nếu phần đất đền bù chưa đủ bằng giá trị ban đầu của đất bị thì đền bù bằng tiền phần còn lại. nếu phần đền bù đất nhiều hơn giá trị ban đầu của đất thì tuỳ theo loại đất mà thu thêm tiền sử dụng đất hoặc không thu thêm tiền sử dụng đất phần dư ra.
Việc thu hồi đất được dựa trên quy hoạch đã được Nhà nước phê duyệt, các dự án xây dựng kinh tế, phát triển đất nước. Do vậy việc đền bù đất cũng được dựa trên cơ sở quy hoạch tổng thể của đất nước, của địa phương, mỗi khu vực, nên đền bù đất đai khi thu hồi đất là cách tốt nhất để sử dụng đất đai hợp lý và hiệu quả hơn. Chúng ta biết mục đích của đền bù đất là trả lại phần đất bị thu hồi cho người bị thu hồi để họ tiếp tục sản xuất trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch dự án đã được Nhà nước phê duyệt. Trong mỗi dự án, một quy hoạch, kế hoạch đều xác định rõ vị trí và mức đất để đền bù thiệt hại khi thu hồi đất. Đây là phần đất đưa vào sử dụng, tuy nhiên cần phải nghiên cứu kỹ vấn đề này để tránh làm lãng phí tiền của của Nhà nước và nhân dân, tránh việc sử dụng đất đai không hợp lý, làm năng suất đất bị giảm.
Ví dụ: Một khu đất có độ màu mỡ rất cao nằm giữa một cánh đồng giao thông ít phát triển ta thực hiện việc thu hồi nó để đưa vào dự án xây dựng khu công nghiệp thì điều này vô cùng lãng phí nguồn tài nguyên đất và rất tốn kém khi thực hiện dự án. Hoặc một nơi có cảnh quan đẹp, đông dân cư mức sống ở vùng và vùng lân cận rất tốt, rất thuận tiện cho xây dựng khu du lịch, công viên vui chơi, nhưng ta lại quy hoạch thành vùng đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp hoặc đất ở thì cũng lãng phí.
Như vậy đền bù đất yêu cầu phải thực hiện theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt và quy hoạch đó phải được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu kỹ và có khoa học về mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. Bởi vì quỹ đất nông nghiệp rất hạn chế. Do đó khi thu hồi cần phải cân nhắc và nghiên cứu thật kỹ trên cơ sở quỹ đất hiện có.
Thu hồi đất và thực hiện đền bù đất sẽ giúp Nhà nước thực hiện việc thanh tra, kiểm tra vấn đề sử dụng đất đai. Đúng như vậy, khi đền bù đất thì dựa trên nguyên tắc sử dụng đúng mục đích, có đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định trong NĐ 22/ CP ngày 24/4/1998.
3.3. Công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng là một trong những công việc hết sức cần thiết, luôn luôn đi đôi với sự phát triển kinh tế- xã hội.
Ngày nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đã có những chuyển biến đáng kể, đời sống nhân dân đã được cải thiện, nhu cầu sản xuất tiêu dùng không ngừng tăng lên. Vai trò của đất đai đối với sản xuất và đời sống càng được nâng cao, do đất đai có hạn còn nhu cầu sử dụng lại tăng lên nên không ngừng bởi sản xuất phát triển và dân số tăng. Nếu trước đây đất đai sử dụng chủ yếu vào mục đích nông nghiệp thì ngày nay do yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là khi nước ta đang trong quá trình CNH- HĐH đất nước, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Do đó, diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất chưa sử dụng có xu hướng giảm xuống để sử dụng vào các mục đích công nghiệp, giao thông xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng. Nhất là việc hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất thực hiện CNH- HĐH đất nước. Đặc biệt là sự tăng lên không ngừng của các dự án đầu tư phát triển cả về chất lượng và số lượng, cả trong nước cũng như ngoài nước nhằm thu hút nguồn vốn phát triển cơ sở hạ tầng.
Một đất nước phát triển, năng suất lao động cao, thu nhập cao, đời sống của người dân được cải thiện khi có nhu cầu về vật chất và tinh thần sẽ thay đổi. Họ không chỉ muốn sống trong những ngôi nhà to đẹp, khang trang đầy đủ tiện nghi, có vị trí thuận lợi mà còn mong muốn ở khu vực mình sinh sống có đầy đủ những loại dịch vụ có thể giúp thư giãn nghỉ ngơi sau những giờ làm việc căng thẳng như công viên, vườn hoa cây cảnh, khu vui chơi giải trí, khách sạn, nhà hàng, bể bơi, sân vận động…. Hơn nữa cùng với sự phát triển kinh tế thì dân số cũng ngày càng tăng, số lượng gia đình một thế hệ chung sống ngày càng lớn do đó nhu cầu sử dụng đất để xây dựng nhà cửa và các công trình khác phục vụ nhu cầu ở của xã hội ngày càng gia tăng.
3.4. Công tác đền bù GPMB góp phần thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, xây dựng và phát triển nhà ở.
Quy hoạch đất đai và nhà ở là việc Nhà nước bố trí, xắp xếp các loại đất đai và nhà ở cho đối tượng sử dụng theo các phạm vi không gian và trong từng thời gian nhất định, với mục đích phục vụ tốt nhất cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và cho phép sử dụng hợp lý, có hiệu quả các yếu tố đất đai và nhà ở.
Kế hoạch sử dụng đất đai và nhà ở bao gồm việc xác định phương hướng, mục tiêu, các chỉ tiêu về sử dụng đất đai, xây dựng và phát triển nhà ở cũng như các biện pháp cần thiết để đạt được các mục tiêu đó một cách tốt nhất.
Quy hoạch sử dụng đất đai nhà ở căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và nó được cụ thể hoá bằng kế hoạch sử dụng đất đai, nhà ở trong từng thời gian nhất định (1 năm hoặc 5 năm). Thực hiện quy hoạch-kế hoạch là thực hiện việc bố trí các khu đất ở các khu vực, các vùng để phát triển các ngành nghề khác nhau như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ hoặc là việc chuyển các loại đất khác nhau sang các mục đích sử dụng khác nhau. Để thực hiện được quy hoạch rõ ràng việc thay đổi mục đích sử dụng đất là tất yếu. Do đó đòi hỏi phải đền bù khi thu hồi đất để chuyển mục đích sử dụng theo quy hoạch. Chính điều này đã có góp phần thực hiện quy hoạch sử dụng đất. Nói cách khác thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai xây dựng và phát triển nhà ở đã bao gồm cả việc đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng.
3.5. Công tác đền bù GPMB góp phần thực hiện các dự án phát triển kinh tế- xã hội liên quan đến việc sử dụng đất đai, xây dựng phát triển nhà ở.
Các dự án đầu tư phát triển kinh tế- xã hội phần lớn đòi hỏi lấy đất để sử dụng nhằm xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho các dự án, trong khi đất đai trước đây đã được giao cho người sử dụng đất sử dụng ổn định lâu dài, nay tiến hành thu hồi là vấn đề hết sức phức tạp. Để có đất thì Nhà nước phải lập ra chính sách đền bù trên cơ sở đó tổ chức thực hiện để thu hồi đất cho các chủ dự án. Như vậy, công tác đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng khi Nhà nước tiến hành thu hồi đất phục vụ cho các dự án. Đặc biệt trong xu hướng phát triển ngày nay, số lượng dự án đầu tư phát triển công tăng thì công tác đền bù thiệt hại GPMB càng trở nên quan trọng, vì chỉ khi công tác này được thực hiện tốt thì các dự án mới có đất đai để sử dụng.
ở bất kỳ một quốc gia nào trong một giai đoạn nhất định sự phát triển kinh tế- xã hội đều có những bất hợp lý. Ví dụ như chưa có quy hoạch sử dụng đất đai, nhà ở hoặc đã có quy hoạch sử dụng đất đai, nhà ở nhưng do tốc độ, nhu cầu phát triển nảy sinh những vấn đề mới, những yếu tố mới trong vấn đề sử dụng đất đai, xây dựng và phát triển nhà ở do đó cần phải có sự điều chỉnh lại quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, xây dựng phát triển nhà ở cụ thể hoá bằng các dự án phát triển kinh tế- xã hội liên quan.
Khi thực hiện các dự án đã nói phần trên như dự án mở rộng một con đường, dự án xây dựng khu đô thị mới, dự án xây dựng khu công nghiệp, dự án xây dựng khu nhà chung cư cao tầng, dự án xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thì việc sử dụng các khu đất mới hoặc việc lấy các khu đất đang sử dụng vào một mục đích cụ thể để sử dụng vào các mục đích khác nhau là tất yếu xảy ra và việc đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng lại là một yếu tố không thể thiếu được, thậm chí đóng vai trò quyết định tiến độ thực hiện các dự án nên phải rất cần chú trọng công tác này.
II. Nội dung của công tác bồi thường thiệt hại GPMB.
1. Nội dung
Giải phóng mặt bằng là hoạt động khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng. Để có thể xây dựng, triển khai và thực hiện được phương án giải phóng mặt bằng đã được phê duyệt đòi hỏi phải thực hiện nhiều bước, nhiều công việc khác nhau từ điều tra, khảo sát, lập và phê duyệt phương án bồi thường đến tổ chức chi trả tiền bồi thường, di dân, tái định cư…. Mặc dù bao gồm nhiều công việc như vậy nhưng quá trình tổ chức giải phóng mặt bằng là nhằm thực hiện 2 nội dung chính:
- Tổ chức bồi thường thiệt hại
- Tổ chức di dân, tái định cư.
* Tổ chức bồi thường thiệt hại và hỗ trợ bao gồm:
+ Đền bù thiệt hại về đất bao gồm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất làm muối, đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, đất ở (đô thị, nông thôn), đất chuyên dùng.
+ Đền bù thiệt hại về tài sản bao gồm nhà cửa, công trình kiến trúc, mồ mả, công trình văn hoá, di tích lịch sử, đình, chùa, công trình kỹ thuật hạ tầng, hoa màu.
+ Trợ cấp đời sống và sản xuất cho những người phải di chuyển chỗ ở, di chuyển địa điểm sản xuất kinh doanh.
+ Trả chi phí chuyển đổi nghề nghiệp cho người có đất bị thu hồi mà phải chuyển nghề nghiệp.
+ Trả các chi phí phục vụ trực tiếp cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, di chuyển, giải phóng mặt bằng.
* Tổ chức di dân, tái định cư :
Căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương và căn cứ vào quy mô thực tế của đất bị thu hồi, khả năng quỹ đất dùng để bồi thường, số hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở phải di chuyển đến nơi ở khác, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định hoặc uỷ quyền cho UBND quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh quyết định tổ chức thực hiện lập khu tái định cư tập trung hoặc tái định cư phân tán cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
2. Đặc điểm của công tác giải phóng mặt bằng.
Nghị quyết số 20- NQ/TU của Ban chấp hành đảng bộ thành phố (khoá XII) ngày 13/7/2000 và Nghị quyết số 09/2000/NQ- HĐ của Hội đồng nhân dân thành phố ngày 21-7-2000 xác định: giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất là một nhiệm vụ quan trọng, nhưng hết sức khó khăn, phức tạp, nhạy cảm. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, vừa cấp bách vừa lâu dài.
Công tác giải phóng mặt bằng là công việc khó khăn, phức tạp, nhạy cảm vì nó tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội; ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần, thói quen, tập quán của người dân (người bị thu hồi đất):
- Đối với Nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội mà còn thể hiện vai trò, nhiệm vụ, quyền năng của Nhà nước trong quá trình quản lý, khai thác, sử dụng đất đai.
- Đối với các chủ dự án đầu tư thu hồi đất, giải phóng mặt bằng liên quan trực tiếp đến việc huy động và sử dụng vốn đầu tư cho hiệu quả, liên quan đến điều kiện và tiến độ thực hiện dự án.
- Đối với người dân- những người bị thu hồi đất thì đất đai và các tài sản trên đất được coi là các tài sản (bất động sản) có giá trị lớn. Đất đai không chỉ có giá trị vật chất mà còn có giá trị tinh thần to lớn: là nơi an cư, lập nghiệp, truyền lại qua nhiều thế hệ.
Sự khó khăn của công tác giải phóng mặt bằng còn do các yếu tố liên quan đến giải phóng mặt bằng thiếu và chưa đồng bộ:
- Chính sách và pháp luật về đất đai, bồi thường thiệt hại còn chưa hoàn chỉnh, chồng chéo và thường xuyên phải thay đổi, bổ sung.
- Bộ máy tổ chức thực hiện còn thiếu, chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ; lực lượng cán bộ làm công tác giải phóng mặt bằng chủ yếu là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo sâu về chuyên môn và chưa có cơ chế ho
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- sfdtgrf.doc