Luận văn Thực trạng nguồn nhân lực và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên trong công cuộc đổi mới hiện nay

Trong xã hội văn minh hiên đại, con người được khẳng định là “nguồn lực của mọi nguồn lực” là tài nguyên to lớn của mỗi quốc gia.

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chương trình mang tính chất chiến lược về đầu tư và phát triển nguồn lực con người của riêng mình, hướng theo một nguyên tắc chung là:

Đặt con người vào trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự thành bại của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước đang tuỳ thuộc vào những bí quyết về đào tạo, sử dụng và phát huy nguồn lực con người.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chính sách phát triển nguồn lực con người. Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: "đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Vì vậy, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001- 2020 của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương trong cả nước.

Do đặc điểm cấu trúc địa hình nước ta, dân tộc thiểu số sống rải rác khắp các tỉnh trong cả nước, đặc biệt là miền núi có tầm quan trọng chiến lược trên nhiều phương diện. Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến việc sử dụng và đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số và xem đây là lực lượng chủ yếu tại địa phương để thúc đẩy sự phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của miền núi nói riêng và cả nước nói chung.

Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (khoá VI) đã vạch rõ những chủ trương, chính sách lớn nhằm phát triển kinh tế xã hội miền núi. Đó là phương hướng quan trọng mang tinh thần đổi mới đối với vùng đồng bào các dân tộc

thiểu số.

Sau hơn 10 năm đổi mới, miền núi đã đạt được kết quả đáng mừng: nhiều mô hình mới phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo xuất hiện, việc chỉnh đốn tổ chức Đảng, chính quyền và kiện toàn đội ngũ cán bộ, tích cực đưa đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn ngày càng được tăng cường. Những kết quả trên có được là nhờ sự đóng góp công sức của lực lượng lao động các dân tộc thiểu số, trong đó có lực lượng lao động có trí tuệ của tất cả các dân tộc thiểu số.

Điện Biên là một tỉnh đông dân, với 3,5 triệu người, nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng nguồn nhân lực còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu mà công cuộc đổi mới trên địa bàn đòi hỏi.

Miền núi Điện Biên chiếm 2/3 diện tích tự nhiên của toàn tỉnh với số dân gần 1 triệu người, gồm có 26 dân tộc anh em cùng chung sống, là vùng rừng núi rộng lớn tiềm năng đất đai, tài nguyên và lao động phong phú, nhưng trong thực tế vẫn chưa khai thác đầy đủ về nguồn nhân lực hiện có. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên trong công cuộc đổi mới hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.

 

doc90 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Thực trạng nguồn nhân lực và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên trong công cuộc đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xã hội văn minh hiên đại, con người được khẳng định là “nguồn lực của mọi nguồn lực” là tài nguyên to lớn của mỗi quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chương trình mang tính chất chiến lược về đầu tư và phát triển nguồn lực con người của riêng mình, hướng theo một nguyên tắc chung là: Đặt con người vào trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự thành bại của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước đang tuỳ thuộc vào những bí quyết về đào tạo, sử dụng và phát huy nguồn lực con người. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chính sách phát triển nguồn lực con người. Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: "đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Vì vậy, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001- 2020 của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương trong cả nước. Do đặc điểm cấu trúc địa hình nước ta, dân tộc thiểu số sống rải rác khắp các tỉnh trong cả nước, đặc biệt là miền núi có tầm quan trọng chiến lược trên nhiều phương diện. Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến việc sử dụng và đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số và xem đây là lực lượng chủ yếu tại địa phương để thúc đẩy sự phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của miền núi nói riêng và cả nước nói chung. Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (khoá VI) đã vạch rõ những chủ trương, chính sách lớn nhằm phát triển kinh tế xã hội miền núi. Đó là phương hướng quan trọng mang tinh thần đổi mới đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Sau hơn 10 năm đổi mới, miền núi đã đạt được kết quả đáng mừng: nhiều mô hình mới phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo xuất hiện, việc chỉnh đốn tổ chức Đảng, chính quyền và kiện toàn đội ngũ cán bộ, tích cực đưa đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn ngày càng được tăng cường. Những kết quả trên có được là nhờ sự đóng góp công sức của lực lượng lao động các dân tộc thiểu số, trong đó có lực lượng lao động có trí tuệ của tất cả các dân tộc thiểu số. Điện Biên là một tỉnh đông dân, với 3,5 triệu người, nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng nguồn nhân lực còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu mà công cuộc đổi mới trên địa bàn đòi hỏi. Miền núi Điện Biên chiếm 2/3 diện tích tự nhiên của toàn tỉnh với số dân gần 1 triệu người, gồm có 26 dân tộc anh em cùng chung sống, là vùng rừng núi rộng lớn tiềm năng đất đai, tài nguyên và lao động phong phú, nhưng trong thực tế vẫn chưa khai thác đầy đủ về nguồn nhân lực hiện có. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số tỉnh Điện Biên trong công cuộc đổi mới hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề con người là một trong những vấn đề trung tâm của triết học và các học thuyết chính trị xã hội. Từ xưa đến nay mỗi trường phái triết học cũng như mỗi học thuyết chính trị xã hội nghiên cứu con người với góc độ khác nhau,trong đó tập trung chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa con ngưới với giới tự nhiên, giữa con người với con người và với xã hội loài người. ở Việt Nam vấn đề con người được nhiều nhà khoa học và lý luận nghiên cứu, đặc biệt trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu con người Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số nói riêng tạo nguồn lực tổng hợp đưa đất nước phát triển. Đó là: - Nguyễn Thế Nghĩa với “Nguồn nhân lực, động lực của CNH - HĐH đất nước”, Tạp chí Triết học, số 1 - 1996. - Nghiên cứu văn hoá, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI (2003) tư liệu hội thảo Quốc tế của đề tài nghiên cứu khoa học KX - 05 tổ chức tại Hà Nội. - Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. - Phan Thanh Phố - An Như Hải với “Phát triển nguồn nhân lực để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 3/1995. - “Phát huy vai trò nhân tố con ngời trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” của Đinh Lục, Luận văn thạc sĩ Triết học, 1993. - Đổi mới tư duy trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề dân tộc ở nước ta để thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng trong giai đoạn mới của Hoàng Thương Minh, Tạp chí Dân tộc học, số 1+2 - 1988. - Một số suy nghĩ trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Trần Đình Huỳnh, Tạp chí Dân tộc học, số 3 - 1988. - Một số vấn đề về cán bộ dân tộc học thiểu số của Vũ Phòng, Tạp chí Cộng sản, số 5 - 1993. - Nguyễn Quốc Phẩm, Hệ thống chính phủ cấp cơ sở và dân chủ hoá đời sống XH nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. - Hà Quế Lâm, Xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. - Nguyễn Xuân Thắng, Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ 1992 - 2000, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002. - Trịnh Quang Cảnh, Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc). - Xây dựng đội ngũ cán bộ thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH: Luận cứ và giải pháp, Tạp chí Lý luận chính trị, 2005. - Lê Hữu Nghĩa. Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện các dân tộc ở Tây nguyên. - Về một số chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, Bộ Chính trị, Nghị quyết 22/NQ/TW ngày 27/11/1989. - Phạm Như Cương, Đi đến một nhận thức về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc, Tạp chí Dân tộc học, số 11-1989, tr.3. - Trần Quang Nhiếp, Đổi mới trong việc thực hiện chính sách dân tộc hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4-1988, tr.12. - Tạ Nghiêm, Cần có một chính sách dân tộc toàn diện và hoàn chỉnh, một cơ cấu giải quyết vấn đề dân tộc thích ứng với tình hình mới, Tạp chí Dân tộc học, số 3-1990, tr.13. - Nông Đức Mạnh (1992), Mấy vấn đề bức thiết đối với các vùng dân tộc thiểu số hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 8-1992, tr.1. - Hà Quế Lâm, Làm tốt công tác đào tạo các hộ dân tộc thiểu số và cán bộ miền núi, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7-1990, tr.23. Rõ ràng, đề tài đã được nghiên cứu ở những mức độ khác nhau trên nhiều bình diện cả về lý luận cũng như về thực tiễn. Tuy nhiên, đây là mảng đề tài cũ luôn hàm chứa những vấn đề mới, nhất là trong tình hình công cuộc đổi mới hiện nay. Hơn nữa, như nhiều tác giả khẳng định, đây là mảng đề tài khó, phức tạp, những vấn đề họ đặt ra cũng như chưa có điều kiện đặt ra đầy đủ luôn cần có sự đầu tư nghiên cứu thêm để có những kiến giải sâu sắc, khoa học hơn. Vì vậy, luận văn " Phỏt huy nguồn nhõn lực cỏc dõn tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay (Qua thực tế tỉnh Điện Biên)" hy vọng sẽ đóng góp phần nhỏ và tình hình chung đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích: Trên cơ sở phân tích tình hình sử dụng và phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta, luận văn đề xuất một số giải pháp phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở Điện Biên trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ: - Phân tích nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay. - Nghiên cứu đánh giá thực trạng sử dụng và phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở nước ta, từ đó đề ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số ở Điện Biên sự nghiệp đổi mới hiện nay. 4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn - Vấn đề phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số của nước ta nói chung đặc biệt là ở tỉnh Điện Biên. - Phạm vi địa bàn khảo sát là tỉnh Điện Biên. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Luận văn vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về nguồn lực con người, về chính sách dân tộc, nâng cao nguồn lực dân tộc thiểu số trong việc phát triển đất nước. - Luận văn vận dụng, kế thừa công trình các tác giả đi trước về vấn đề này. - Luận văn sử dụng phương pháp: lịch sử và logic, trừu tượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp, điều tra, thống kê, xã hội học… - Luận văn sử dụng những tài liệu của các cấp chính quyền, các ngành... ở tỉnh Điện Biên. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn góp phần đánh giá thực trạng việc sử dụng, phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Điện Biên. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu để từng bước phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu số trên địa bàn này nhằm đáp ứng yêu cầu trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Những kết luận được rút ra và những giải pháp được trình bày trong luận văn nhằm phát huy nguồn lực con người các dân tộc thiểu sổ ở Việt nam hiện nay. - Là tài liệu tham khảo ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số cho việc xây dựng, hoạch định chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và tỉnh Điện Biên nói riêng. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 vấn đề phát huy nguồn nhân lực các dân tộc thiểu số ở Việt Nam 1.1. Quan điểm mác xít về phát huy nguồn nhân lực 1.1.1. Con người và nguồn nhân lực - Vấn đề con người: Vấn đề con người, nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực là một trong những mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia và toàn th giới. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong nhiều thế kỷ, người ta đã bị ám ảnh bởi cảnh nghèo đói đe doạ và mong muốn thoát khỏi nguy cơ này, vươn tới cuộc sống no đủ, hạnh phúc hơn. Đó là nguyện vọng chính đáng. Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, sự phát triển con người và nguồn nhân lực được liên hợp quốc thừa nhận là vấn đề trung tâm và là thước đo để đánh giá, xếp loại mức độ phát triển của mỗi quốc gia. Hơn 100 năm trước, khi coi tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự phát triển nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã cho rằng, xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, bao gồm con người và những công cụ lao động do con người tạo ra. Sự phát triển lực lượng sản xuất tự nó nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người chiếm lĩnh, sử dụng ngày càng nhiều nguồn lực tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con người và quyết định quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất ngày càng phát triển, tính chất xã hội của sản xuất ngày càng gia tăng, việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do việc đó mang lại, sẽ cần đến con người hoàn toàn mới, những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Đến lượt mình nền sản xuất đó "sẽ tạo nên những con người mới", sẽ làm cho những thành viên trong cả cộng đồng xã hội "có năng lực phát triển toàn diện". Điều đó cho thấy, trong quan niệm của các nhà máy sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển sản xuất vì tiến bộ xã hội, vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho mọi thành viên trong cộng đồng, vì phát triển con người biết sử dụng ngày càng có hiệu quả tiềm năng sáng tạo của chính mình để "sản xuất ra những con người phát triển toàn diện". Hơn nữa, C. Mác còn coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con người là "một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội. Trong học thuyết duy vật lịch sử của mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin coi con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu trong lực lượng sản xuất,mà hơn thế nữa, con người còn là chủ thể của lịch sử. Con người vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm mục tiêu, vừa là trung tâm của mọi biến đổi lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra lịch sử của chính mình, lịch sử của xã hội loài người. Cũng trong quá trình hoạt động sản xuất vật chất, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, các lĩnh vực hoạt động cơ bản đó là cơ sở để phát triển con người. Do vậy, "tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại... là sự tồn tại của những cá nhân con người sống", đó là những con người hiện thực, "bằng xương bằng thịt" [25, tr.29] với hoạt động sản xuất vật chất của họ và trong những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ. Từ quan niệm đó, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Sự phát triển lực lượng sản xuất, trước hết phải có nghĩa là "phát triển sự phong phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân". Theo đó, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển và tiến bộ xã hội là sự phát triển con người, nâng cao năng lực và phẩm giá con người, để con người được sống với cuộc sống đích thực là người. Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà nó còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của sự tiến bộ xã hội. Bằng hoạt động lao động sản xuất, con người đã cải tạo tự nhiên để thoả mãn những nhu cầu của mình, đồng thời cải tạo chính bản thân mình. Ph. Ăngghen đã viết "lao động là nguồn gốc của mọi của cải, là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người" [26, tr.641]. Sống trong tự nhiên, con người không chỉ dựa vào tự nhiên, mà trong quá trình tác động vào tự nhiên, con người còn cải biến tự nhiên ấy và trên cơ sở đó, sáng tạo ra những điều kiện đảm bảo cho sự sinh tồn của bản thân mình, sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân mình. Con người chinh phục, cải biến tự nhiên không phải chỉ với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, mà còn với tư cách là những thành viên trong một cộng đồng xã hội. Sống trong một cộng đồng xã hội, con người tất yếu có quan hệ với nhau, trao đổi hoạt động với nhau, nhất là trong hoạt động lao động sản xuất. Con người không thể tách rời tự nhiên. Nó chỉ có thể tồn tại và phát triển dựa vào tự nhiên và trên cơ sở làm biến đổi tự nhiên. Không có tự nhiên và xã hội thì con người không thể tiến hành sản xuất được. Song, đến lượt mình, sản xuất xã hội lại trở thành điều kiện tiên quyết để con người cải biến tự nhiên, biến đổi xã hội, trở thành nhân tố quyết định trực tiếp sự tồn tại và phát triển của con người, của cả xã hội loài người. Trình độ sản xuất của con người càng cao thì con người càng có điều kiện để thoả mãn những nhu cầu vật chất của mình và do vậy, cũng làm phong phú thêm đời sống xã hội, đời sống tinh thần của con người. Qua đó, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình, phát triển chính mình và thúc đẩy xã hội phát triển. Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất của tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì sự phát triển con người, đưa con người "từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do", làm cho "con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình, trở thành người tự do". Đó cũng chính là quá trình mà nhân loại tự tạo ra những điều kiện, những khả năng nhằm đem lại sự phát triển cho mỗi con người trong cộng đồng, tạo cho con người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử và làm chủ mọi hoạt động của chính mình. Quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về tiến bộ và sự phát triển xã hội lấy sự phát triển của con người làm mục đích càng phải được khẳng định trong thời đại ngày nay. Bởi lẽ, ngày nay, nhân loại đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức rõ ràng tính đa dạng trong các hình thức phát triển của nó. Xã hội loài người, kể từ thời tiền sử cho đến nay, bao giờ cũng là một hệ thống, chỉnh thể, thống nhất song cũng đồng thời là một hệ thống hết sức phức tạp, đa dạng. Chính sự phức tạp và đa dạng trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở các nước, các khu vực, các châu lục khác nhau - điều mà cách đây hơn 80 năm, V. I. Lênin đã gọi là quy luật phát triển kinh tế không đồng đều. Đến lượt mình, tính không đồng đều của sự phát triển này lại hình thành nên những khuynh hướng hết sức đa dạng về phát triển xã hội. Song, dù phát triển theo hướng nào thì cuối cùng xu hướng chung của sự phát triển xã hội dưới sự tác động của các lực lượng tiến bộ cũng hướng tới giá trị nhân văn của nó - tới sự phát triển con người, hoàn thiện con người với tư cách là chủ thể của sự phát triển xã hội. Không phải cho đến nay chúng ta mới nhận thấy điều đó, mà ngay từ buổi đầu tiến hành sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Chăm lo hạnh phúc của mọi người, mọi nhà đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ trung tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi nói đến con người với tư cách là "người chủ xã hội" là cái "vốn quý nhất", là lực lượng xây dựng thành công CNXH, Người không chỉ nói đến trí tuệ, tài năng, sức khoẻ của con người, mà còn nói tới nhiều yếu tố khác của con người, trong đó có những giá trị xã hội được kết tinh trong bản thân từng con người thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng và cải tạo xã hội. Nói đến con người XHCN với tư cách lực lượng đóng vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp xây dựng CNXH trên đất nước ta, Người nói đến tính hướng đích, tính định hướng về giá trị, phẩm cách, sự phát triển toàn diện và không ngừng vươn lên của con người trong việc cải tạo và xây dựng xã hội mới bằng hoạt động lao động sáng tạo của mình. Với quan điểm về sự phát triển con người toàn diện, trong suốt những năm tháng lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến việc giáo dục và thường xuyên nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cho mọi người, không ngừng đào tạo "các lớp nhân tài" đồng thời không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi tầng lớp nhân dân về ăn, mặc, ở, đi lại, học hành... Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta một lần nữa khẳng định chủ trương "phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội" [5, tr.13]. Với thực tiễn của hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới ở nước ta, với bối cảnh quốc tế và khu vực hiện thời, để phát triển con người Việt Nam, để "bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người" chúng ta "nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội. Chính vì thế mọi kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối liên hệ không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, cho việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng, đủ sức đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước. Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đang bước vào thời kỳ mới. Nó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ những giá trị to lớn và có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người - chủ thể của mọi sáng tạo, nguồn "tài nguyên vô giá", vô tận của đất nước. Từ đó phải đổi mới cách nhìn, cách nghĩ về vai trò động lực và mục tiêu của con người trong sự nghiệp đổi mới. Thực hiện chiến lược phát triển con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phải coi việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng - cách mạng về con người. Chính cuộc cách mạng về con người sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển bền vững, đẩy mạnh tiến độ công cuộc đổi mới, thúc đẩy quá trình đổi mới toàn diện đất nước. Với ý nghĩa đó, con người Việt Nam không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực của quá trình đổi mới đất nước. - Vấn đề nguồn nhân lực: Trong thời đại hiện nay đối với bất cứ quốc gia nào việc xác định một cách đúng đắn và huy động có hiệu quả các nguồn lực đều được coi là điều có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới. Vì thế có nhiều lý thuyết coi con người là một loài vốn đặc biệt "tư bản người" (Humancapital), "tài nguyên người", "nguồn lực có khả năng tái sinh", "nguồn lực của mọi nguồn lực", "nguồn lực cơ bản", "lực lượng sản xuất hàng đầu"... Nhân lực được hiểu là nguồn lực của con người bao gồm: Trí thức, tâm lực, thể lực, năng lực. Nguồn lực (Human Rersources) theo nghĩa rộng là tổng thể các tiềm năng (lao động) của con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó, có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (hoặc một vùng, một địa phương cụ thể). Với cách tiếp cận này, nguồn nhân lực như một bộ phận cấu thành các nguồn lực của quốc gia như nguồn lực vật chất (trừ con người), nguồn lực tài chính, nguồn lực trí tuệ (chất xám). Những nguồn lực này có thể được huy động một cách tối ưu để phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực được nghiên cứu trên giác độ số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nhân lực. Các chỉ tiêu này có liên quan mật thiết tới chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Chất lượng nguồn nhân lực được nghiên cứu trên các khía cạnh về sức khoẻ, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực phẩm chất... Theo nghĩa tương đối hẹp: Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lao động. Khái niệm người lao động hiện nay cũng có những khác biệt giữa các quốc gia. Chẳng hạn: + ở Liên Xô (cũ): Nguồn lao động là toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và dạng tiềm tàng (có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động). + ở Pháp: Nguồn lao động là toàn bộ những người có khả năng lao động (đang làm việc và chưa làm việc nhưng không bao gồm những người có khả năng lao động nhưng chưa tham gia). + ở Việt Nam: Hiện nay tương đối thống nhất hiểu nguồn lao động gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (gồm cả những người trên tuổi lao động, thực tế đang làm việc) và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng chưa làm việc do: Thất nghiệp, đang đi học, đang làm nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc. Theo nghĩa hẹp hơn: Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động trong nền kinh tế quốc dân (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế), nghĩa là bao gồm những người trong một độ tuổi nhất định nào đó, có khả năng lao động, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. Về độ tuổi, hiện nay có nhiều quy định khác nhau. Đa số các nước có quy định tối thiểu thường là 15 tuổi, còn tối đa thường trùng với tuổi nghỉ hưu hoặc không giới hạn. ở Việt Nam, lực lượng lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm; những người ngoài độ tuổi lao động thực tế làm việc và những người thất nghiệp; nghĩa là không bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học; đang làm nội trợ trong gia đình; không có nhu cầu làm việc. - Các khái niệm liên quan đến nguồn nhân lực: + Đội ngũ lao động là những người lao động trong nguồn nhân lực đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân (còn gọi là dân số hoạt động kinh tế tích cực). Đây là bộ phận quan trọng nhất đối với nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế - xã hội nói riêng. Vì vậy, vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động nhằm phát huy tàon bộ nguồn nhân lực luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. + Vốn nhân lực là khái niệm tương đối mới, vốn nhân lực được hiểu là tiềm năng và khả năng phát huy tiềm năng về sức khoẻ, kiến thức của các cá nhân và là cái mang lại lợi ích trong tương lai cao hơn và lớn hơn những lợi ích hiện tại. Khái niệm "vốn" được hiểu là giá trị mang lại lợi ích (kinh tế - xã hội), để chỉ ra tầm quan trọng của việc đầu tư vào phát triển con người thông qua giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhằm tạo ra những người lao động có tri thức, có khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, có kỹ năng nghề nghiệp và có sức khoẻ đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của công việc. Như vậy, không phải bất cứ con người nào cũng có thể trở thành vốn nhân lực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docbia.doc
Tài liệu liên quan