Hơn 20 năm đổi mới và phát triển kinh tế, quá trình thực thi CSTT của Việt Nam đã có nhiều thay đổi căn bản và ngày càng trở nên thích ứng hơn với những mục tiêu điều tiết nền kinh tế, góp phần tích cực cho sự ổn định thị trường tài chính, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay kinh tế trong nước cũng như thế giới ngày càng có nhiều thay đổi khó lường đã khiến cho quá trình xây dựng và thực thi CSTT ngày càng trở nên khó khăn và phức tạp.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, mặc dù đã góp phần quan trọng trong tiến trình ổn định nền kinh tế vĩ mô nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng nhưng CSTT ở nước ta vẫn còn bộc lộ không ít những bất cập và hạn chế. Các giải pháp đưa ra còn mang tính tình thế, tạm thời và chưa thật sự linh hoạt, thậm chí còn gây nên những bất ổn. Chẳng hạn, bằng việc liên tục thay đổi các mục tiêu điều hành CSTT NHNN đã góp phần kiềm chế lạm phát nhưng lại gây những tác động bất lợi đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, thị trường tài chính và cả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Từ chỗ các ngân hàng thiếu vốn nghiêm trọng trong giai đoạn đầu 2008 lại chuyển sang thừa vốn vào những tháng cuối năm 2008, trong khi các doanh nghiệp - đặc biệt, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì lại đối mặt với hàng loạt khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng. Chính những diễn biến này cho thấy việc sửa đổi, hoàn thiện hơn nữa CSTT là đòi hỏi thực tế khách quan của nền kinh tế. Đó không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của NHNN, của các nhà lãnh đạo mà còn là nhiệm vụ bức thiết đối với mỗi chúng ta - những người nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế chính trị, những người góp tiếng nói của mình vào trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách của đất nước. Vì vậy, việc nhận diện rõ ràng và cụ thể các mục tiêu của CSTT nhằm thực thi một CSTT linh hoạt, hữu hiệu, thích nghi tốt với diễn biến thời cuộc là yêu cầu bức thiết đặt ra cho Việt Nam trong thời gian tới.
128 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 20 năm đổi mới và phát triển kinh tế, quá trình thực thi CSTT của Việt Nam đã có nhiều thay đổi căn bản và ngày càng trở nên thích ứng hơn với những mục tiêu điều tiết nền kinh tế, góp phần tích cực cho sự ổn định thị trường tài chính, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay kinh tế trong nước cũng như thế giới ngày càng có nhiều thay đổi khó lường đã khiến cho quá trình xây dựng và thực thi CSTT ngày càng trở nên khó khăn và phức tạp.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, mặc dù đã góp phần quan trọng trong tiến trình ổn định nền kinh tế vĩ mô nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng nhưng CSTT ở nước ta vẫn còn bộc lộ không ít những bất cập và hạn chế. Các giải pháp đưa ra còn mang tính tình thế, tạm thời và chưa thật sự linh hoạt, thậm chí còn gây nên những bất ổn. Chẳng hạn, bằng việc liên tục thay đổi các mục tiêu điều hành CSTT NHNN đã góp phần kiềm chế lạm phát nhưng lại gây những tác động bất lợi đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, thị trường tài chính và cả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Từ chỗ các ngân hàng thiếu vốn nghiêm trọng trong giai đoạn đầu 2008 lại chuyển sang thừa vốn vào những tháng cuối năm 2008, trong khi các doanh nghiệp - đặc biệt, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì lại đối mặt với hàng loạt khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng. Chính những diễn biến này cho thấy việc sửa đổi, hoàn thiện hơn nữa CSTT là đòi hỏi thực tế khách quan của nền kinh tế. Đó không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của NHNN, của các nhà lãnh đạo mà còn là nhiệm vụ bức thiết đối với mỗi chúng ta - những người nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế chính trị, những người góp tiếng nói của mình vào trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách của đất nước. Vì vậy, việc nhận diện rõ ràng và cụ thể các mục tiêu của CSTT nhằm thực thi một CSTT linh hoạt, hữu hiệu, thích nghi tốt với diễn biến thời cuộc là yêu cầu bức thiết đặt ra cho Việt Nam trong thời gian tới.
Với ý nghĩa đó, vấn đề “Thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay” được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong hơn 20 năm đổi mới kinh tế ở nước ta, những nghiên cứu về CSTT ngày càng thu hút sự quan tâm của các cơ quan chức năng của Chính phủ, của các nhà khoa học, nhà quản lý, các nhà quản trị… Nhiều công trình đã được công bố, chẳng hạn như:
* Về sách, có một số cuốn sách đã được phát hành như
- Nguyễn Võ Ngoạn (1996), Hệ thống công cụ CSTT quốc gia trong nền kinh tế thị trường”, NXB Tài chính.
- Nguyễn Duệ (chủ biên), Nguyễn Văn Tiến, Tô Kim Ngọc (1999), Đồng tiền chung Châu Âu và CSTT của NHTW Châu Âu, NXB Thống kê
- Lê Vinh Danh (2005), CSTT và sự điều tiết vĩ mô của NHTW, NXB Tài chính.
* Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ:
- Đặng Chí Chơn (1995), NHNN và việc thực thi có hiệu quả CSTT trong cơ chế thị trường Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ kinh tế: 5.02.09 -- TP Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Võ Ngoạn (1995), Hoàn thiện các công cụ của NHNN Việt Nam để thực hiện CSTT quốc gia, Luận án phó tiến sĩ kinh tế: 5.02.09 .
- Hoàng Xuân Quế (2003), Giải pháp hoàn thiện các công cụ chủ yếu của CSTT ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế: 5.02.09.
- Lê Thị Thanh Hằng (2007), Giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế: 60.31.12.
* Một số bài viết đã được công bố trên các báo, tạp chí:
- Hoàng Ngọc Hòa (2003), “Những thách thức đối với tài chính - tiền tệ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Kinh tế và phát triển.
- Hoàng Yến (2004), “Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến CSTT và chính sách thương mại của Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 8.
- Đinh Xuân Hạ (2005), “Đổi mới điều hành CSTT của NHNN trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, số 8.
- MU (2005),“Ảnh hưởng của quá trình hội nhập đến CSTT quốc gia”, Tạp chí Ngân hàng Ngoại Thương, số 5.
- Nguyễn Thành Trung (2006), “Vai trò CSTT của Việt Nam và những khuyến nghị”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 5.
- Nguyễn Văn Hậu (2008), “Toàn cầu hóa tài chính với CSTT - tín dụng quốc gia”, Thông tin những vấn đề kinh tế chính trị học, Số 18.
Mặc dù số lượng các công trình nghiên cứu rất nhiều, rất đa dạng và phong phú, bên cạnh những đóng góp có giá trị cho việc nghiên cứu lý luận hay ứng dụng, thực thi… nhưng tiếp cận CSTT trên phương diện kinh tế chính trị thì còn rất hạn chế, thậm chí chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Thực thi chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay” trên phương diện kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực thi CSTT làm cơ sở để phân tích thực trạng thực thi CSTT ở Việt Nam trong trong giai đoạn 2001 - 3/2009. Trên cơ sở những quan điểm và phương hướng đã được xác định, luận văn đề ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực thi CSTT ở Việt Nam giai đoạn đến 2015.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ những vấn đề chính sau:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về thực thi CSTT, kinh nghiệm thực thi CSTT của một số nền kinh tế và rút ra một số gợi ý cho Việt Nam.
- Phân tích thực trạng thực thi CSTT của Việt Nam giai đoạn 2001 - 3/2009.
- Đề xuất các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả CSTT của Việt Nam giai đoạn đến năm 2015.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Trên phương diện kinh tế chính trị, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những quan hệ kinh tế chủ yếu trong quá trình thực thi CSTT của Việt Nam giai đoạn 2001 - 3/2009. Nếu xét theo quy trình thì quá trình thực thi chính sách tiền tệ bao gồm 5 hoạt động cơ bản sau: hoạt động soạn thảo và ban hành CSTT; hoạt động thẩm định, đánh giá CSTT; hoạt động tổ chức thực hiện CSTT; hoạt động chuyên môn của CSTT và hoạt động kiểm soát, giám sát các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, để phù hợp với yêu cầu luận văn chỉ chú trọng tập trung nghiên cứu các hoạt động thực thi chính sách trực tiếp liên quan đến những mục tiêu chủ yếu của CSTT - đó là, đảm bảo cung ứng và điều tiết tổng phương tiện thanh toán; kiểm soát hoạt động tín dụng trong nền kinh tế; kiểm soát ngoại hối và kiểm soát việc tạm ứng cho ngân sách nhà nước. Và, những công cụ chủ yếu như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở. Trên cơ sở đó, luận văn tập trung đánh giá những tác động của thực thi CSTT đến nền kinh tế Việt Nam giai đoạn từ năm 2001 đến đầu năm 2009
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Những nguyên lý cơ bản của Kinh tế chính trị Mác - Lênin, các lý thuyết hiện đại về CSTT và thực thi CSTT.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy, chức năng của Nhà nước và NHNN cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và trong quá trình điều hành và thực thi CSTT.
- Những cam kết khu vực và quốc tế có liên quan
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng Mácxit, luận văn chú trọng sử dụng các phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác-Lênin: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp phân tích với tổng hợp, so sánh,...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã hệ thống hóa và phân tích cơ sở khoa học của việc thực thi CSTT ở Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng thực thi CSTT Việt Nam trong giai đoạn từ 2001 - 3/2009, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi CSTT của Việt Nam giai đoạn đến 2015. Từ đó, luận văn là cơ sở, tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, hoạch định và thực thi CSTT nước ta trong giai đoạn đến 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương và 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1.1. Chính sách tiền tệ và thực thi chính sách tiền tệ
1.1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Trong thực tế, có nhiều loại chính sách kinh tế và những chính sách này được phân loại dưới nhiều góc độ khác nhau, chẳng hạn như: vi mô, vĩ mô; ngắn hạn, trung hạn và dài hạn;…
Theo các quan điểm phổ biến hiện nay thì chính sách tiền tệ thuộc nhóm chính sách kinh tế vĩ mô ngắn hạn. Nếu các chính sách kinh tế là công cụ của Nhà nước để điều tiết và hướng nền kinh tế tới mục tiêu mong muốn, chúng thường bị chi phối bởi 3 nhóm yếu tố: chủ thể ban hành và thực thi chính sách kinh tế là Nhà nước, nền kinh tế mà trực tiếp là những bộ phận, những chức năng của nền kinh tế trực tiếp là đối tượng điều chỉnh của chính sách …và, môi trường thực thi chính sách; thì, chính sách tiền tệ cũng không nằm ngoài những cái chung đó.
Tuy nhiên, căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế và giác độ nghiên cứu mà luận văn đề cập thì chính sách tiền tệ còn được tiếp cận theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa hẹp, CSTT là chính sách bảo đảm việc cung ứng mức cung tiền (tổng phương tiện thanh toán) trong từng thời kỳ (thường là một năm) phù hợp với mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế hay các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác.
- Theo nghĩa rộng, CSTT là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, là hệ thống các giải pháp và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường tiền tệ và tín dụng do NHTW khởi thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị đồng tiền, hướng nền kinh tế vào những mục tiêu mong muốn [18, tr.217].
Trong tác phẩm “Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính” F.S. Mishkin đã đưa ra quan niệm CSTT theo nghĩa rộng: CSTT là một trong các chính sách vĩ mô, trong đó NHTW thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trên cơ sở đó đạt được những mục tiêu cuối cùng của mình là công ăn việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định tỷ giá hối đoái [17, tr.211].
Ở Việt Nam, Điều 2 Luật NHNN Việt Nam ban hành năm 1997 đã nêu rõ: CSTT là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống của nhân dân [27].
Từ đó, có thể thấy CSTT có các đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, CSTT là một bộ phận hữu cơ cấu thành các chính sách kinh tế.
Như chúng ta đã biết, trong tổng thể các chính sách kinh tế của một quốc gia, mỗi chính sách đề có vị trí và vai trò riêng của nó. Trong đó, CSTT luôn được xem là một chính sách trung tâm, gắn kết nhiều chính sách lại với nhau. Bởi lẽ, các nền kinh tế hiện đại đều là nền kinh tế tiền tệ, nói cách khác - những nền kinh tế này đã được tiền tệ hóa cao độ (tính theo chỉ số hóa tiền tệ M2/GDP). Vì vậy, ở các nền kinh tế này các quan hệ kinh tế chủ yếu phải dựa trên, xoay quanh và được phản ánh bởi các quan hệ tiền tệ, tiền tệ đã xâm nhập và trở thành một yếu tố hết sức quan trọng trong nền kinh tế và do vậy CSTT là chính sách kinh tế trung tâm và có vai trò ngày càng quan trọng.
Thứ hai, CSTT thuộc nhóm chính sách kinh tế vĩ mô - do đó, nó không có mục đích tự thân mà phải hướng tới phục vụ các mục tiêu của nền kinh tế
Muốn thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần phải thực thi nhiều chính sách kinh tế vĩ mô trong đó có CSTT. Khác với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá, chính sách kinh tế đối ngoại… thì CSTT chủ yếu chỉ tác động ở thị trường tiền tệ, và qua đó tác động đến đến mặt cầu của nền kinh tế, ảnh hưởng đến giá cả, đầu tư, việc làm, sản lượng …
Thứ ba, mặc dù CSTT chỉ chủ yếu tác động và làm thay đổi những cân bằng ngắn hạn, vừa có tác dụng điều chỉnh ổn định kinh tế, vừa hướng sự cân bằng ngắn hạn của nền kinh tế vận động xoay quanh giới hạn khả năng sản xuất - tức là, đạt được mức hiệu quả trên cơ sở khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng kinh tế, do đó, góp phần làm giảm tính chu kỳ của nền kinh tế, nhưng nó còn ảnh hưởng mặc dù gián tiếp nhưng rất quan trọng đến sự phát triển của nền kinh tế ở cả trung và dài hạn. Chẳng hạn như, bằng việc thay đổi mức lãi suất, sử dụng định chế mức lãi suất ưu đãi mà CSTT góp phần khuyến khích đầu tư mới, huy động các nguồn vốn, tăng tiết kiệm, tích lũy và do đó tăng đầu tư đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tư, NHTW là cơ quan chức năng của Chính phủ, trực tiếp tham gia vào quá trình soạn thảo, ban hành và thực thi CSTT.
Việc thực hiện chức năng này của NHNN ở mỗi quốc gia còn phụ thuộc vào mô hình tổ chức bộ máy của quốc gia đó. Ở Việt nam, NHNN là thành viên của chính phủ, trực tiếp chịu sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, tính độc lập rất thấp nên ít tính linh hoạt và điều đó ảnh hưởng không ít đến hiệu quả thực thi CSTT. Và điều ngược lại có thể xảy ra đối với các nền kinh tế mà NHNN có tính độc lập rất cao.
1.1.1.2. Quan niệm thực thi chính sách tiền tệ
Thứ nhất, thực thi CSTT phải mang tính hệ thống. Vì CSTT là một bộ phận cấu thành trong hệ thống các chính sách kinh tế - tài chính của quốc gia và trong hệ thống đó, các bộ phận cấu thành có mối quan hệ tác động với nhau. Do vậy một CSTT hữu hiệu đòi hỏi phải được thiết lập và vận hành trong mối quan hệ với các chính sách khác, chứ không nên tự coi mình là một yếu tố độc lập tuyệt đối mặc dù bản thân CSTT có vai trò cực kỳ quan trọng. Vì vậy, việc sử dụng và thực thi CSTT không thể độc lập, tách rời với những chính sách kinh tế vĩ mô khác mà nó phải được đặt trong một hệ thống, một chỉnh thể thống nhất - Đó là một tất yếu kinh tế và mang tính phổ biến.
Thứ hai, thực thi CSTT phải đảm bảo tính đồng bộ và nhất quán. Tính đồng bộ và nhất quán luôn được đặt lên hàng đầu trong quá trình thực thi CSTT.
Thứ ba, thực thi CSTT phải linh hoạt, chủ động, hiệu quả nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành cán cân thanh toán quốc tế không để bị thâm hụt. Nhưng cũng phải có nhiều phương án dự phòng để tính toán trong trường hợp có diễn biến mới trên thị trường quốc tế.
1.1.2. Nội dung cơ bản và hình thức thực thi chính sách tiền tệ
CSTT là một thành tố quan trọng của hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô, vì vậy việc xây dựng và thực thi CSTT phải gắn với những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế vĩ mô trọng yếu - cụ thể, phục vụ đắc lực quá trình đổi mới, ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế cả về ngắn hạn và dài hạn.
Theo như giới hạn nghiên cứu đã nêu, nội hàm của vấn đề này được trình bày ở một số hoạt động thực thi cơ bản sau:
1.1.2.1. Cung ứng và điều tiết tổng phương tiện thanh toán trong lưu thông
* Lượng tiền cung ứng (Tổng phương tiện thanh toán - MS)
Theo lý thuyết về số nhân tiền ta có:
s + 1
Trong đó: s là tỷ lệ tiền mặt/tiền gửi
s + ra
MS = x H ra là tỷ lệ dự trữ thực tế tiền gửi
H là tiền cơ sở (cơ số tiền tệ)
H = U + Ra U là tiền mặt trong lưu thông
Ra là tiền mặt dự trữ trong các
ngân hàng
Từ đó, có thể thấy, những thay đổi trong 3 biến (H, ra và s) làm cho cung ứng tiền tệ thay đổi như thế nào:
Thứ nhất, cung ứng tiền tệ tỷ lệ thuận với cơ số tiền. Vì vậy, sự gia tăng cơ số tiền làm tăng cung ứng tiền tệ theo cùng một tỷ lệ.
Thứ hai, tỷ lệ dự trữ trên tiền gửi càng thấp, thì ngân hàng càng cho vay nhiều và tạo thêm nhiều tiền từ mỗi VNĐ dự trữ, tức càng được nhiều tiền. Bởi vậy, sự cắt giảm tỷ lệ tiền mặt/tiền gửi làm số nhân tiền và cung ứng tiền tăng lên.
Thứ ba, tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi (s) càng thấp, công chúng càng giữ ít VNĐ, các NHTM càng giữ nhiều VNĐ thì càng tạo ra được nhiều tiền. Vì vậy, sự cắt giảm tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi làm số nhân tiền và cung ứng tiền tệ tăng lên.
Trên thực tế, tốc độ lưu thông tiền tệ còn bị chi phối bởi: tốc độ chu chuyển vật tư hàng hóa, lòng tin của dân cư vào giá trị đồng tiền, sự tiên liệu của dân cư vào thời cơ và vận hội làm ăn sinh lời, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước, kỳ vọng của các doanh nhân, trình độ kỹ thuật và khả năng tổ chức thanh toán của Ngân hàng.
NHTW thông qua các công cụ của mình (thị trường mở, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu) để khống chế sao cho khối lượng cung ứng tiền tệ trong một giai đoạn nào đó phải cân bằng với mức tăng của GNPn và vòng quay tiền tệ trong cùng thời kỳ đó. C.Mác cũng cho rằng: số lượng các phương tiện lưu thông là do tổng giá trị của hàng hóa lưu thông và tốc độ lưu thông trung bình của tiền tệ quy định. Tức là khối lượng tiền tệ lưu thông thực tế (Kt) phải bằng khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông (Kc), tức Kt = Kc. Trong đó, Kc là tổng giá cả hàng hóa (H) chia cho vòng quay của đồng tiền (V) [41, tr. 348]
* Điều hòa lượng tiền cung cứng tăng, giảm theo tín hiệu thị trường
Lượng tiền cung ứng tăng thêm chỉ là chỉ tiêu định lượng. Điều quan trọng là NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, của giá cả, của tỷ giá hối đoái. Từ đó NHTW điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tệ tăng thêm hay giảm đi không làm tăng giá cả hoặc tắc nghẽn lưu thông vì thiếu phương tiện thanh toán.
Hai yếu tố động nhất của tín hiệu tiền tệ là giá cả và tỷ giá hối đoái. Còn tốc độ tăng trưởng và vòng quay đồng tiền đều biến động tiệm tiến, khó biết trước chính xác.
1.1.2.2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế
Khối lượng tín dụng mà các NHTM cung cấp cho các doanh nghiệp xuất phát từ hai nguồn - đó là: huy động tiền vốn có sẵn trong lưu thông để cho vay và sử dụng lượng tiền của NHTW thông qua quá trình tái cấp vốn.
Khi NHTM tiến hành nghiệp vụ cấp tín dụng sẽ diễn ra quá trình tạo tiền gửi mới nhờ số nhân tiền. Trong các nước công nghiệp, nơi có hệ thống ngân hàng đã phát triển cao, thị trường tiền tệ nhạy cảm, cơ chế vay mượn hiện đại và tinh vi, thì việc sử dụng các công cụ gián tiếp như: nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu không chỉ điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông, mà còn điều tiết cả tín dụng. Ngoài ra, người ta còn dùng giải pháp bổ trợ bằng khống chế hạn mức tín dụng, cụ thể là:
Từ khối lượng tiền tệ có thể cung ứng thêm, NHTW dành chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngắn hạn phù hợp với mức tăng trưởng, có tính đến mức lạm phát (nếu có) đã được khống chế trong từng thời kỳ nhất định.
Đồng thời, khối lượng tiền tệ tăng thêm qua tín dụng sẽ không được “rót” từ NHTW xuống, bất chấp thực trạng về vốn, chất lượng tín dụng của các NHTM, mà được hình thành trước hết từ nhu cầu thực sự của thị trường tiền tệ thông qua quan hệ vay vốn giữa các doanh nghiệp và các NHTM. Khi các NHTM thiếu vốn thì họ đến NHTW xin tái cấp vốn (tái chiết khấu) tiền trung ương. NHTW là người cho vay thường xuyên, là người cho vay cuối cùng và là chủ nợ đối với NHTM nhằm kiểm soát chất lượng và số lượng tín dụng, các nguồn tiền gửi của các NHTM và TCTD, theo các định hướng chính sách cụ thể sau:
* Đa dạng hóa các thành phần của khối tiền tệ
Để tăng tầm kiểm soát của NHTW, tích cực kiềm chế lạm phát, tăng nguồn tín dụng, người ta thực hiện chính sách đa dạng hóa các thành phần của khối tiền tệ trong lưu thông bằng cách NHTW thúc đẩy các NHTM thu hút tất cả các nguồn tiền gửi của mọi doanh nghiệp và dân cư bằng cách mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Từ đó, phát triển các thành phần khác của khối tiền tệ như séc và các công cụ lưu thông tín dụng khác bên cạnh tiền mặt, nhằm tăng nguồn vốn tín dụng của các NHTM và tăng khả năng chi phối của NHTW đối với khối tiền tệ
* Thay lãi suất thực âm (thường lấy lý do hỗ trợ sản xuất, khuyến khích đầu tư) bằng lãi suất thực dương (đã loại trừ tỷ lệ lạm phát) để thay CSTT làm xói mòn nguồn vốn bằng CSTT mở rộng nguồn vốn.
Với một lãi suất thực dương vừa phải, sẽ làm cho dân cư chuyển từ dạng tiết kiệm phi tài chính (dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản,…) qua dạng tiết kiệm tài chính, tăng lượng tiền gửi ngân hàng. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các ngân hàng trung gian thực hiện CSTT “mở rộng nguồn vốn” bằng việc áp dụng lãi suất thực dương, thực hiện triệt để nguyên tắc “vay để cho vay”. Trong khi đó, các NHTM chỉ tìm đến nguồn tiền trung ương bằng biện pháp tái cấp vốn.
* Thay CSTT thụ động phục vụ bằng CSTT chủ động điều tiết.
Tín dụng và lãi suất không phải là những công cụ “phục vụ” đơn giản và thụ động đối với các doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp quốc doanh) với bất cứ giá nào, như một thứ cấp phát ngân sách. Trên thị trường tiền tệ, khách hàng hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn ngân hàng. Và đến lượt mình, ngân hàng cũng có quyền chủ động lựa chọn khách hàng làm ăn có hiệu quả để đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế. Điều này có nghĩa là phải chuyển từ một CSTT thụ động sang một CSTT tích cực, trong đó ngân hàng được chủ động điều tiết. Mặt khác, khách hàng muốn tồn tại, cần sửa đổi phương pháp kinh doanh sao cho có hiệu quả để được vay vốn…
1.1.2.3. Chính sách quản lý ngoại hối
Chính sách quản lý ngoại hối nhằm mục đích bảo vệ giá trị nội tệ, kích thích tăng trưởng kinh tế. Để làm được điều đó, trong lĩnh vực ngoại hối NHTW thực hiện các nhiệm vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại trên các phương diện sau: quản lý ngoại hối; lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế; thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tham gia vào trị trường hối đoái; xây dựng và thống nhất quản lý quỹ dự trữ ngoại hối của đất nước; phấn đấu ổn định tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả trong nước; quan hệ với NHTW khác, với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ (vay nợ) nước ngoài có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối; tổ chức quản lý nợ nước ngoài…
Trong số các vấn đề nêu trên thì chính sách hối đoái, quản lý dự trữ ngoại hối, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tỷ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối lượng tiền cung ứng và giá trị đồng tiền trong nước, cụ thể là:
* Chính sách hối đoái
Nhiều nước thực hiện chính sách độc quyền hối đoái, cấm lưu thông tiền nước ngoài trên đất nước mình, chính sách ngoại hối hướng vào việc ngăn chặn việc tích trữ ngoại hối rải rác trong các pháp nhân và thế nhân, quản lý việc mua bán ngoại tệ (có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng và khi cần thì mua tại ngân hàng hay tại thị trường hối đoái), thu hút các nguồn ngoại tệ vào NHTW. Đây là chính sách mua đứt bán đoạn chứ không phải cho phép các tổ chức dân cư và người cư trú được cất giữ ngoại tệ trên tài khoản mở ở các ngân hàng. Bởi vì điều này chỉ có lợi cho nước phát hành số ngoại tệ đó. Nhờ phát hành tiền, họ đã thu về khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà chưa bị đòi nợ, như một khoản tín dụng tự nguyện không phải trả lãi. Về phía các ngân hàng trong nước, nếu huy động tiền gửi không kỳ hạn hoặc ngắn hạn thì cũng không thể sử dụng được nhiều số ngoại tệ đó. Tất yếu họ phải đem gửi ngân hàng nước ngoài để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút ra của khách hàng và tìm kiếm chút lãi để bù đắp lãi suất tiền gửi đã huy động vào. Việc vay hoặc huy động ngoại tệ dài hạn lại là vấn đề khác.
* Dự trữ ngoại hối
Dự trữ ngoại hối là lượng ngoại hối được lưu giữ tại NHTW nhằm cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và can thiệp vào cung, cầu ngoại hối trên thị trường để điều tiết tỷ giá hối đoái. Do đó, mỗi quốc gia đều có dự trữ ngoại hối, tùy theo khả năng nền kinh tế nước đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng trong nước. NHTW mua và gia tăng dự trữ ngoại hối sẽ làm gia tăng khối lượng tiền tệ. Ngược lại, khi NHTW bán ngoại tệ ra, giảm dự trữ ngoại hối thì cũng đồng thời làm giảm khối lượng tiền tệ. Do đó, qua việc mua bán ngoại hối, NHTW thực hiện can thiệp thị trường, chủ động tác động tỷ giá hối đoái theo chiều mong muốn.
* Thị trường hối đoái
Thị trường hối đoái (còn gọi thị trường ngoại hối) là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị như ngoại tệ.
NHTW với tư cách là người thực thi và điều hành CSTT, có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp vào thị trường ngoại hối thông qua cung, cầu ngoại hối. Trong đó, tác động trực tiếp bằng cách thiết lập quỹ bình ổn hối đoái và quỹ dự trữ ngoại hối. Cụ thể, khi NHTW dùng những quỹ này để tác động đến cung, cầu ngoại hối như sau: Nếu cầu ngoại hối cao, tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng quá mức, NHTW sẽ bán ngoại hối từ dự trữ ngoại hối làm tăng khả năng cung ngoại hối trên thị trường trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, tỷ giá hối đoái từ từ giảm xuống. Ngược lại nếu tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm quá giới hạn cho phép, NHTW sẽ mua ngoại hối bằng đồng nội tệ làm tăng cầu nội tệ trên thị trường, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên và dự trữ ngoại hối cũng tăng theo.
Tác động gián tiếp là thông qua hệ thống NHTM để tác động vào việc mua bán ngoại tệ của các doanh nghiệp như việc quy định khung của tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng, quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ, lượng ngoại tệ được phép mua, các quy định về giao dịch ngoại hối của các doanh nghiệp và dân chúng qua ngân h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- bia muc luc.doc