Chính sách cán bộ là một bộ phận quan trọng của công tác cán bộ, là công cụ và biện pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ. Có hệ thống chính sách cán bộ đúng sẽ hỗ trợ, thúc đẩy các mặt công tác cán bộ, tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ cán bộ; ngược lại, chính sách cán bộ không tốt sẽ gây khó khăn cho công tác cán bộ, thậm chí làm làm biến dạng sự phát triển của đội ngũ cán bộ, gây ra những hậu quả tiêu cực không lường hết. Đảng ta nhận thức: thực hiện chính sách đối với cán bộ là khâu rất quan trọng, là điều kiện cần thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ [4, tr.108].
Xã là địa bàn sinh sống của phần lớn dân cư nước ta, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thấy rõ vị trí, tầm quan trọng của cơ sở xã và đội ngũ cán bộ cơ sở ở đây, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về xây dựng hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ cơ sở xã; đã thực hiện một số chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng, đề bạt, bầu cử, tiền lương, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ cơ sở phù hợp với tình hình mới. Nhờ đó, cán bộ cơ sở xã ngày càng tiến bộ về trình độ, năng lực, phong cách làm việc, năng động, sáng tạo, hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Qua thực hiện các Nghị quyết của Đảng về xây dựng cán bộ cơ sở, đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn từng bước được phát triển cả về số lượng, chất lượng. Việc thực hiện tiêu chuẩn hóa các chức danh cán bộ và chính sách thu hút cán bộ trẻ, sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở xã đã từng bước nâng cao được trình độ và trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp xã luôn là vấn đề mang tính chiến lược của sự nghiệp cách mạng. Nó chi phối khả năng thành công hay thất bại của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bởi xét đến cùng thì mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải được triển khai thực hiện ở cơ sở và thông qua hoạt động tác nghiệp của đội ngũ cán bộ cơ sở.
Mặt khác, Đảng ta thấy rõ hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ xã còn nhiều hạn chế. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân quan trọng như ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị đã nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa IX) là: Nguyên nhân chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của cơ sở, quan liêu, để một thời gian quá dài không có chính sách đồng bộ đối với cán bộ, thiếu chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cho cơ sở, không kịp thời bàn và đưa ra những chính sách để củng cố và tăng cường đội ngũ cán bộ cơ sở.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Đảng ta chủ trương tiến tới xây dựng hệ thống chính sách cán bộ một cách đồng bộ và nhất quán, công bằng, thống nhất phù hợp với từng loại đối tượng cán bộ, khuyến khích những cán bộ có tài, trân trọng những cán bộ có đóng góp lớn, đồng thời xử lý nghiêm minh và kịp thời những người có sai phạm. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xây dựng hệ thống chính sách cán bộ chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Trong những năm qua, thành phố Hà Nội rất quan tâm đến việc thực hiện chính sách cán bộ đối với đối với cán bộ xã ở Thành phố. Việc thực hiện chính sách cỏn bộ xã đó đạt được một số kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ xó từng bước phát triển về số lượng và chất lượng; việc thực hiện chính sách thu hút cán bộ trẻ, sinh viên mới tốt nghiệp về công tác ở cơ sở đó tạo nờn sự chuyển biến tớch cực về chất lượng của đội ngũ cán bộ xã, trỡnh độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ này từng bước được nâng lên và xu thế ngày càng được trẻ hoá. Phong trào học tập nõng cao trỡnh độ của cán bộ, công chức xó được đẩy mạnh hơn. Việc chuyển từ chế độ sinh hoạt phí sang chế độ tiền lương, từ hưởng trợ cấp hàng tháng khi nghỉ việc sang hưởng chế độ hưu trí, đã tạo sự an tâm phấn khởi trong đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức xã ở thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả thu được, việc thực hiện chính sách đối với cán bộ xã nói chung và ở Hà Nội nói riêng hiện nay đã và đang phát sinh những vướng mắc, bất cập, như: bố trí tỷ lệ chưa tương xứng giữa cán bộ giữ chức vụ bầu cử và công chức chuyên môn; số lượng cán bộ, công chức cấp xã chưa đủ để bố trí cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới; chế độ, chính sách đãi ngộ (tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội .) đối với cán bộ, công chức xã, đến nay còn nhiều bất cập, mâu thuẫn; việc ban hành và thực hiện các văn bản, quy định về chính sách cán bộ cơ sở của Đảng và Nhà nước hầu hết vẫn mang tính giải pháp tình thế, chưa cơ bản, chưa đồng bộ. Chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức cấp xã những năm qua thường xuyên thay đổi, không ổn định. Điều đó chứng tỏ quan điểm, nhận thức về cán bộ cơ sở còn rất khác nhau. Việc giải quyết chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ xã mới chỉ chạy theo những vấn đề phát sinh, chưa cơ bản và toàn diện.
104 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1163 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách cán bộ là một bộ phận quan trọng của công tác cán bộ, là công cụ và biện pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ. Có hệ thống chính sách cán bộ đúng sẽ hỗ trợ, thúc đẩy các mặt công tác cán bộ, tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ cán bộ; ngược lại, chính sách cán bộ không tốt sẽ gây khó khăn cho công tác cán bộ, thậm chí làm làm biến dạng sự phát triển của đội ngũ cán bộ, gây ra những hậu quả tiêu cực không lường hết. Đảng ta nhận thức: thực hiện chính sách đối với cán bộ là khâu rất quan trọng, là điều kiện cần thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ [4, tr.108].
Xã là địa bàn sinh sống của phần lớn dân cư nước ta, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thấy rõ vị trí, tầm quan trọng của cơ sở xã và đội ngũ cán bộ cơ sở ở đây, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về xây dựng hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ cơ sở xã; đã thực hiện một số chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng, đề bạt, bầu cử, tiền lương, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ cơ sở phù hợp với tình hình mới. Nhờ đó, cán bộ cơ sở xã ngày càng tiến bộ về trình độ, năng lực, phong cách làm việc, năng động, sáng tạo, hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Qua thực hiện các Nghị quyết của Đảng về xây dựng cán bộ cơ sở, đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn từng bước được phát triển cả về số lượng, chất lượng. Việc thực hiện tiêu chuẩn hóa các chức danh cán bộ và chính sách thu hút cán bộ trẻ, sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở xã đã từng bước nâng cao được trình độ và trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp xã luôn là vấn đề mang tính chiến lược của sự nghiệp cách mạng. Nó chi phối khả năng thành công hay thất bại của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bởi xét đến cùng thì mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải được triển khai thực hiện ở cơ sở và thông qua hoạt động tác nghiệp của đội ngũ cán bộ cơ sở.
Mặt khác, Đảng ta thấy rõ hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ xã còn nhiều hạn chế. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân quan trọng như ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị đã nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa IX) là: Nguyên nhân chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của cơ sở, quan liêu, để một thời gian quá dài không có chính sách đồng bộ đối với cán bộ, thiếu chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cho cơ sở, không kịp thời bàn và đưa ra những chính sách để củng cố và tăng cường đội ngũ cán bộ cơ sở.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Đảng ta chủ trương tiến tới xây dựng hệ thống chính sách cán bộ một cách đồng bộ và nhất quán, công bằng, thống nhất phù hợp với từng loại đối tượng cán bộ, khuyến khích những cán bộ có tài, trân trọng những cán bộ có đóng góp lớn, đồng thời xử lý nghiêm minh và kịp thời những người có sai phạm. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xây dựng hệ thống chính sách cán bộ chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Trong những năm qua, thành phố Hà Nội rất quan tâm đến việc thực hiện chính sách cán bộ đối với đối với cán bộ xã ở Thành phố. Việc thực hiện chính sách cỏn bộ xã đó đạt được một số kết quả quan trọng. Đội ngũ cỏn bộ xó từng bước phỏt triển về số lượng và chất lượng; việc thực hiện chớnh sỏch thu hỳt cỏn bộ trẻ, sinh viờn mới tốt nghiệp về cụng tỏc ở cơ sở đó tạo nờn sự chuyển biến tớch cực về chất lượng của đội ngũ cỏn bộ xã, trỡnh độ mọi mặt của đội ngũ cỏn bộ này từng bước được nõng lờn và xu thế ngày càng được trẻ hoỏ. Phong trào học tập nõng cao trỡnh độ của cỏn bộ, cụng chức xó được đẩy mạnh hơn. Việc chuyển từ chế độ sinh hoạt phí sang chế độ tiền lương, từ hưởng trợ cấp hàng tháng khi nghỉ việc sang hưởng chế độ hưu trí, đã tạo sự an tâm phấn khởi trong đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức xã ở thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả thu được, việc thực hiện chính sách đối với cán bộ xã nói chung và ở Hà Nội nói riêng hiện nay đã và đang phát sinh những vướng mắc, bất cập, như: bố trí tỷ lệ chưa tương xứng giữa cán bộ giữ chức vụ bầu cử và công chức chuyên môn; số lượng cán bộ, công chức cấp xã chưa đủ để bố trí cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới; chế độ, chính sách đãi ngộ (tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội ...) đối với cán bộ, công chức xã, đến nay còn nhiều bất cập, mâu thuẫn; việc ban hành và thực hiện các văn bản, quy định về chính sách cán bộ cơ sở của Đảng và Nhà nước hầu hết vẫn mang tính giải pháp tình thế, chưa cơ bản, chưa đồng bộ. Chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức cấp xã những năm qua thường xuyên thay đổi, không ổn định. Điều đó chứng tỏ quan điểm, nhận thức về cán bộ cơ sở còn rất khác nhau. Việc giải quyết chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ xã mới chỉ chạy theo những vấn đề phát sinh, chưa cơ bản và toàn diện.
Từ những vấn đề nêu trên và trước yêu cầu, đòi hỏi mới đối với cán bộ, công chức cơ sở cho thấy cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn để đề ra các giải pháp góp phần tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã. Do vậy, tôi chọn đề tài “Thực hiện chớnh sỏch cỏn bộ đối với cỏn bộ xó ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay " làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Xây dựng Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách cán bộ nói chung và chính sách cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn là một vấn đề lớn trong công tác cán bộ, được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn cũng đã có những nghiờn cứu về chính sách cán bộ ở các góc độ khác nhau, tiêu biểu như:
* Sách, đề tài khoa học
- TS Thang Văn Phúc, TS Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên): “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức", Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004.
- Nguyễn Đặng: “Chính sách, chế độ đối với những cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn", Nxb Lao động Thương binh Xã hội, Hà Nội 2004;
- PGS,TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Trần Xuân Sầm: “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Đề tài độc lập cấp nhà nước: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng thang bảng lương mới (Bộ Nội vụ). 2005. Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Trọng Điều.
- TS. Dương Quang Tung: (Đề tài nhánh): Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- TS. Hồ Công Dũng: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên" (Đề tài cấp Bộ), Bộ Nội vụ, 2007.
-TS. Nguyễn Thị Hải Vân - Lê Xuân Từ: “Hỏi đáp về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn", Nxb Thống kê, Hà Nội, 2007. Nội dung cuốn sách gồm 5 phần: Phần thứ nhất: Những vấn đề chung; Phần thứ hai: Chế độ, chính sách về tiền lương, sinh hoạt phí và phụ cấp; Phần thứ ba: Chế độ bầu cử, tuyển dụng, đào tạo, khen thưởng, kỷ luật; Phần thứ tư: Chế độ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chế độ khác; Phần thứ năm: Một số văn bản quy phạm pháp luật áp dụng đối với cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn.
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở" của Học Viện Nguyễn ái Quốc, 1992.
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở", chủ nhiệm đề tài TS Nguyễn Thế Vịnh - chuyên viên cao cấp Bộ nội vụ, Hà Nội, 2009.
- Báo cáo chuyên đề: Quan điểm, chính sách đào tạo, sử dụng và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của ban Tổ chức Trung ương, 1998
* Cỏc bài viết trờn tạp chớ:
+ TS. Nguyễn Hữu Đức, Vụ Chính quyền địa phương, Bộ Nội vụ: “Bàn về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn" (
Tác giả trình bày số lượng xã, phường, thị trấn theo 3 loại được quy định tại Nghị định 159/2005/NĐ-CP ngày 29/12/2005 của Chính phủ và đánh giá về số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo một số tiêu chí cơ bản. Bên cạnh đó, tác giả nêu lên những bất cập về chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách ở cơ sở xã, phường, thị trấn về chế độ, chính sách lương, bảo hiểm xã hội: còn bất hợp lý về chế độ tiền lương cán bộ bầu cử và công chức chuyên môn có cùng trình độ đào tạo; về bảo hiểm xã hội: theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội của cán bộ, công chức xã là 20 năm và phải đủ 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam mới đủ điều kiện nghỉ hưu, việc này có nhiều bất cập cho cán bộ, công chức xã, nhất là những vùng đặc biệt khó khăn. Chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ cấp xã trước đây có quy định "chức danh khác" đó tham gia bảo hiểm xó hội theo Nghị định số 09/1998/ NĐ-CP của Chớnh phủ đến nay nghỉ việc chưa được giải quyết.
Theo nội dung bài viết, tác giả đề cập đến đối tượng cỏn bộ chuyờn trỏch giữ chức vụ bầu cử cấp xó, nếu cả trỡnh độ chuyờn mụn từ trung cấp trở lờn được xếp ngạch và hưởng chế độ tiền lương theo bảng lương hành chớnh; trường hợp chưa cú bằng cấp chuyờn mụn thỡ được hưởng lương chức vụ theo quy định hiện nay của Nghị định 121/2003/NĐ-CP. Đồng thời cả hai trường hợp trờn được cộng thờm phụ cấp chức vụ lónh đạo. Mức phụ cấp lónh đạo tựy theo mụ hỡnh phõn loại xó, tương đương với phụ cấp lónh đạo của trưởng, phú phũng cấp huyện.
+ Lê Thanh Hà, “chính sách với cán bộ, công chức cơ sở cần đồng bộ, sát thực tế” Object=4&news _ID =51177710.
Theo tỏc giả: trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã và đang quan tõm chăm lo đối với cỏn bộ cơ sở. Chớnh phủ đã ban hành nhiều văn bản về thực hiện chế độ chớnh sỏch đối với cỏn bộ cơ sở ở xó, phường, thị trấn. Điển hỡnh là Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 và Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21-10-2003 của Chớnh phủ quy định về tổ chức, biờn chế, tiờu chuẩn và chế độ, chớnh sỏch đối với cỏn bộ, cụng chức cơ sở xó, phường, thị trấn - đội ngũ cỏn bộ cú một thời gian dài bị “bỏ quờn”, làm việc khụng lương, chỉ cú sinh hoạt phớ. Sau một thời gian thực hiện, cả hai Nghị định trờn bộc lộ một số bất cập, thiếu đồng bộ, chưa sỏt thực tế. Vớ dụ, chế độ chớnh sỏch đối với phú cụng an xó và xó đội phú; giữa xó đội phú với trưởng cụng an xó; giữa bớ thư đảng uỷ xó, cú trỡnh độ đại học, cú thõm niờn cụng tỏc hàng chục năm nhưng tiền lương khụng bằng cỏn bộ chuyờn mụn ở xó ra trường chỉ 5-6 năm. Tỏc giả đưa một số kiến nghị sửa đổi những quy định về chế độ, chớnh sỏch đối với cỏn bộ ở xó, phường, thị trấn.
* Luận án, luận văn
- Phạm Công Khâm: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Luận án tiến sỹ, Học viện Chớnh trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- Mạc Minh Sản: Hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận ỏn Tiến sĩ, Học viện Chớnh trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
- Trần Đình Gia (2008): Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ thuộc diện Ban thường vụ Huyện uỷ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chớnh trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Dũng (2008): Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở tỉnh Vĩnh Long trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chớnh trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Ngọc Danh (2005): Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An”, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chớnh trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
Cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu trờn, ở những góc độ và mức độ khác nhau đã bàn đến vấn đề chính sách cán bộ. Một số công trình đã đi sõu luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn việc thực hiện chính sách cán bộ, chỉ ra phương hướng và giải phỏp đổi mới chính sách cán bộ với một đối tượng, ở một địa bàn cụ thể. Tuy nhiờn, đến nay chưa cú cụng trỡnh nào đi sõu nghiờn cứu về thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ cơ sở xã ở thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ hơn những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội.
- Đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội, tìm ra nguyên nhân, rút ra kinh nghiệm.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đề tài nghiên cứu việc thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội
- Đề tài khảo sát việc thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội kể từ khi có Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đến nay và định hướng giải pháp đến năm 2015
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cán bộ, chính sách cán bộ.
- Phương pháp nghiên cứu: luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp khái quát hoá; tổng hợp, phân tích; tổng kết thực tiễn; lịch sử - lôgic, kết hợp với các phương pháp khảo sát, điều tra, so sánh...
6. Những đóng góp về khoa học, thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn việc thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã nói chung, cán bộ xã ở thành phố Hà Nội nói riêng; đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách đối với đội ngũ cán bộ đó.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc thực hiện chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn ở Hà Nội và làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập môn xây dựng Đảng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương 6 tiết.
Chương 1
thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố hà Nội - lý luận và thực tiễn
1.1. Cán bộ xã và chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội
1.1.1. Xã và cán bộ xã ở thành phố Hà Nội
1.1.1.1. Xã ở thành phố Hà Nội
Hà Nội- Thủ đô của cả nước, nằm ở phía Tây Bắc của vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng, từ 20o53’ đến 21o23’ độ vĩ Bắc và 105o44’ đến 106o02 độ kinh Đông; Phía Bắc giáp các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; Phía Nam giáp Hà Nam, Hòa Bình; Phía Đông giáp Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên; Phía Tây giáp Hòa Bình, Phú Thọ.
Địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Địa hình, địa thế của Hà Nội hiện nay rất đa dạng, có đồng bằng chiếm phần lớn diện tích toàn Thành phố, Ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác, có dải bán sơn địa ở phía Tây - Tây Bắc với hàng nghìn ha, có tiềm năng lớn trong trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc. Phần lớn diện tích đồi núi thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, Quốc Oai.
Với vị trí địa lý có nhiều sông cổ chảy qua, như: Sông Đà, sông Hồng, sông Tích, sông Đáy, sông Nhuệ, sông Kim Ngưu... Những con sông này xưa kia là huyết mạch giao thông chính, đầy ắp những truyền thuyết dựng làng giữ nước của dân tộc; phía Đông Thành phố, đối diện thuộc phía tả ngạn sông Hồng là tỉnh Hưng Yên; phía Bắc, qua sông Hồng và sông Đà là tỉnh trung du Vĩnh Phúc; phía Tây tiếp giáp với tỉnh miền núi Hòa Bình, phía nam là tỉnh Hà Nam. Ngoài ra, Hà Nội còn có nhiều tuyến giao thông chiến lược chạy qua, như: quốc lộ 1A, 6, 11, 21, 22, 73... Với vị trí địa lý như vậy, nên Hà Nội có vị trí rất quan trọng và thuận lợi về nhiều mặt ở đồng bằng Bắc Bộ, trước hết là vị trí chính trị và vị trí chiến lược về quân sự, một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội của cả nước; là cầu nối Hà Nội với nhiều miền của đất nước và là bản lề giữa đồng bằng với miền núi, nối các tỉnh đồng bằng phía nam hữu ngạn sông Hồng với Việt Bắc, Tây Bắc.
Theo Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 tháng 5 năm 2008 của kỳ họp thứ 3, Quốc Hội khóa XII về việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô. Hiện nay, Thành phố Hà Nội bao gồm 10 huyện, 18 huyện và 1 thị xã. Hà Nội có 577 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó 401 đơn vị cơ sở xã, 157 phường và 22 thị trấn, với diện tích 334.470,02 ha và dân số trên 6.400.000 người, mật độ dân cư trung bình 1875 người/km2 (đại bộ phận là người Kinh, chỉ có một số ít người dân tộc Mường, dân tộc Dao, Tày, Nùng, sán dìu...).
Xã là đơn vị hành chớnh lónh thổ cấp cơ sở cú đầy đủ cỏc tổ chức trong hệ thống chớnh trị, cú cỏc tổ chức kinh tế, cỏc tổ chức xó hội, nghề nghiệp. Góp phần làm nên vị trớ và tầm vúc của Thủ đụ, với quy mô 401 đơn vị, cỏc xã thuộc ngoại thành Hà Nội cú vai trũ to lớn. Đây là vùng đệm bảo đảm sự cân bằng giữa khu vực nội thành và các địa phương lân cận. Cỏc xã thuộc ngoại thành Hà Nội là khụng chỉ là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm và là nơi tiêu thụ hàng hóa quan trọng cho khu vực nội thành mà còn là nguồn cung cấp lao động, nguyên liệu, không gian phát triển cho Thủ đô trước mắt và lâu dài. Cỏc liờn kết giữa nụng thụn ngoại thành và nội thị thủ đô ngày càng trở nờn đa dạng, phức tạp. Nhiều khu vực nụng thụn ngoại thành của Hà Nội cú những chuyển dịch rất mạnh trong cơ cấu kinh tế, lao động; có bước phát triển mạnh trong sản xuất nụng nghiệp, công nghiệp, cũng như trong phỏt triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho mục tiờu phỏt triển Thủ đụ.
Với cơ cấu như hiện nay, tỷ lệ xã của Hà Nội chiếm tới 2/3 trong tổng số đơn vị cơ sở cấp xã. Do đó, xã ở Hà Nội có vai trò to lớn trong nội dung các chính sách phát triển của Thủ đô thời gian tới.
1.1.1.2. Cán bộ xã ở thành phố Hà Nội
* Quan niệm về cán bộ xã ở thành phố Hà Nội
Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX đã xác định: Hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách.
Thứ nhất: Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm:
Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: cán bộ chủ chốt của cấp ủy đảng, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, những người đứng đầu ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Cán bộ chuyên môn được ủy ban nhân dân tuyển chọn gồm: công an trưởng, xã đội trưởng, cán bộ văn phòng, địa chính, tài chính- kế toán, tư pháp, văn hóa-xã hội. Số lượng cán bộ chuyên trách do Chính phủ quy định.
Cán bộ chuyên trách ở cơ sở có chế độ làm việc và được hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước; khi không còn là cán bộ chuyên trách mà chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí, được tiếp tục tự đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng trợ cấp một lần theo chế độ nghỉ việc. Cán bộ, công chức ở cơ sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Theo Khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ công chức ngày 29/04/2003, thì cán bộ cấp xã gồm cán bộ xã và công chức xã:
Cán bộ xã là những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã.
Công chức cấp xã là những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức 1998 và Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày21/10/2003 của Chính Phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn cũng quy định rõ cán bộ, công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
- Cán bộ chuyên trách cấp xã bao gồm:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Thường trực Đảng ủy cấp xã (nơi không có Phó Bí thư chuyên trách công tác đảng); Bí thư, Phó bí thư chi bộ xã (nơi chưa thành lập Đảng ủy cấp xã);
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân;
+ Chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ,
+ Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
- Công chức cấp xã bao gồm:
+ Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - Thống kê;
+ Địa chính - Xây dựng;
+ Tài chính - Kế toán;
+ Tư pháp - Hộ tịch;
+ Văn hóa - Xã hội.
Cán bộ chuyên trách ở xã của thành phố Hà Nội cũng nằm trong các quy định chung về cán bộ, công chức nói trên.
Thứ hai: Cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia việc công trong một phần thời gian lao động. Căn cứ hướng dẫn của Trung ương, ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định về số lượng và mức phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách trong hệ thống chính trị ở cấp cơ sở.
Cán bộ không chuyên trách xã, phường, thị trấn của thành phố Hà Nội được quy định theo Nghị quyết số 13/2008/NQ-HĐND ngày 09/12/2008 của Hội đồng nhân dân Thành phố khóa XIII, kỳ họp thứ XVII như sau:
+ Trưởng ban Tổ chức Đảng, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra Đảng, trưởng ban Tuyên giáo và một cán bộ văn phòng đảng ủy xã.
+ Phó trưởng công an xã
+ Phó chỉ huy trưởng quân sự xã.
+ Cán bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
+ Cán bộ văn thư, thủ quỹ hoặc cán bộ làm công tác tiếp nhận hành chính theo cơ chế một cửa.
+ Trưởng Đài truyền thanh hoặc cán bộ phụ trách Đài truyền thanh.
+ Cán bộ kế hoạch - giao thông - thủy lợi - công nghiệp - nông, lâm, ngư nghiệp.
+ Cán bộ dân số - gia đình và trẻ em.
+ Cán bộ văn hóa.
+ Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, phó các đoàn thể và Chủ tịch các hội Người cao tuổi, Chữ thập đỏ.
Từ các quy định trên, theo phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn, cán bộ xã ở Thành phố Hà Nội nói trong luận văn bao gồm tất cả những người là cán bộ chuyên trách và không chuyên trách trong hệ thống chính trị xã.
* Vai trò của đội ngũ cán bộ xã ở Thành phố Hà Nội
Lịch sử cho thấy, để tiến hành đấu tranh cách mạng có kết quả cần có những người tổ chức, lãnh đạo phong trào. C.Mác và Ph.ăngghen đã khẳng định: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [56, tr.181]. Con người mà hai ông đã nói chính là cán bộ, những người có vai trò lãnh đạo quần chúng thực hiện các tư tưởng cách mạng.
Đối với sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân, dù chưa có nhiều thực tế để bàn về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, C.Mác và Ph.ăng ghen luôn cho rằng cần phải có một đội ngũ vừa có tri thức lý luận, lòng trung thành với lý tưởng của giai cấp, vừa có năng lực tổ chức thực tiễn mới có khả năng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đó.
V.I.Lênin, người kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đã đặc biệt coi trọng vai trò của cán bộ. Người chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào" [51, tr.473].
Theo VI.Lênin, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ trước hết là ở chỗ cán bộ là người bảo đảm tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Cán bộ vừa là người xây dựng đường lối, vừa tiến hành lựa chọn phương pháp, chỉ đạo và kiểm tra quá trình vận động cách mạng, hướng tới mục tiêu đã đề ra. Trong thời kỳ phải tập trung thực hiện đường lối của Đảng, Lênin khẳng định “Mấu chốt là vấn đề người, vấn đề lựa chọn người” và “kiểm tra việc chấp hành” [55, tr.132,136] chứ không phải là việc ra các nghị quyết.
Khi giành được chính quyền, vấn đề cán bộ càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn. Hàng loạt vấn đề được đặt ra trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo, quản lý. Nhiệm vụ mới mẻ đầy khó khăn của giai đoạn này là quản kinh tế- xã hội bàng nhà nước nhằm xây dựng thành công xã hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ đó được tiến hành trên quy mô rộng lớn và phải là sự nghiệp của toàn dân. Do vậy, nó đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ đóng vai trò tổ chức các quá trình thực tiễn một cách có hiệu quả. Qua thực tiễn lãnh đạo xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng, VI.Lênin đã khẳng định: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt, nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [54, tr.449].
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng và cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến cán bộ và công tác cán bộ. Người coi: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [64, tr.269], và Người cũng đã lý giải một cách cặn kẽ, dễ hiểu vai trò “cái gốc” của người cán bộ trong nhiều bài nói bài viết cũng như việc làm của Người. Vai trò ấy được thể hiện trong bốn mối quan hệ chủ yếu: cán bộ với đường lối chính sách, cán bộ với tổ chức bộ máy, cán bộ với công vi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van moi.doc
- bia luanvan.doc