Nhìn lại những thập kỷ cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình tôn giáo trên thế giới và trong nước ta hiện nay, có nhiều biểu hiện diễn biến phức tạp, hết sức nhạy cảm, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được lý giải trên cơ sở khoa học. Trong xã hội hiện đại ngày nay, tôn giáo đang trở thành một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo luôn biến động phản ánh sự biến đổi của lịch sử nhân loại. Thực tế đã chứng minh rằng, một tôn giáo cụ thể ở một quốc gia nhất định có thể suy tàn, hưng thịnh hoặc mất đi, song nhìn chung từ khi ra đời cho đến nay, tôn giáo luôn tồn tại trong xã hội loài người. Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, nhưng lại liên quan và luôn ảnh hưởng khá sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, tác động đến văn hoá, đạo đức, kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Việt Nam là đất nước đa tôn giáo, mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng từ bi, hỉ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời, phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Đạo Phật đã trở thành một trong những hệ tư tưởng - tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần con người Việt Nam trong lịch sử. Theo cuốn Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam của tác giả Phùng Hữu Phú chủ biên có ghi: nhìn nhận lực lượng Phật giáo, Hồ Chí Minh đánh giá: “Tín đồ Phật giáo chiếm 3/4 nhân dân Việt Nam” [55, tr.24].
Phật giáo Việt Nam luôn gắn liền vận mệnh đất nước, thăng hoa cùng dân tộc trong mọi hoàn cảnh và trải qua mọi thời đại. Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo có truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc. Bên cạnh đó, văn hoá Phật giáo là một bộ phận không thể tách rời văn hoá dân tộc. Đạo Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo của nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn hoá dân tộc.
Mỗi một tôn giáo, để trở thành một tôn giáo đích thực đều phải giải đáp câu hỏi: Thế giới này (kể cả tự nhiên và xã hội) là gì? Do đâu mà có? Vận hành theo những quy luật nào? Đằng sau cái thế giới hữu hình này là cái gì? Có nhận thức được không?.
Phật giáo với cái đích là cứu con người thoát khỏi nỗi khổ muôn đời, với cứu cánh là giải thoát. Nhìn bề ngoài, nó chủ yếu bàn về nhân sinh, nhưng để cho những quan niệm nhân sinh này tồn tại một cách vững chãi, trải dài hơn 2500 năm thì chúng phải dựa trên một cơ sở triết học, một nền tảng lý luận, thế giới quan vô cùng sâu sắc. Chính vì vậy, mà Phật giáo mang đậm tính triết học hơn bất kỳ một tôn giáo nào khác.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay, do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với các học thuyết tư tưởng và tôn giáo, đạo Phật đã có những biến chuyển mạnh mẽ cùng với sự chuyển mình lớn lao của đất nước.
115 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Thế giới quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thÕ giíi quan phËt gi¸o vµ ¶nh hëng cña nã ®èi víi ®êi sèng tinh thÇn con ngêi ViÖt Nam hiÖn nay
Hµ Néi – 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
7
1.1. Sự ra đời và phát triển của thế giới quan Phật giáo
7
1.2. Nội dung thế giới quan Phật giáo
18
1.3. Đặc điểm thế giới quan Phật giáo Việt Nam
42
Chương 2: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
49
2.1. Thực trạng ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với một số lĩnh vực của đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay
49
2.2. Một số vấn đề đặt ra (Xét ở những khía cạnh tiêu cực)
82
2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay
90
KẾT LUẬN
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
108
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Nhìn lại những thập kỷ cuối thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình tôn giáo trên thế giới và trong nước ta hiện nay, có nhiều biểu hiện diễn biến phức tạp, hết sức nhạy cảm, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được lý giải trên cơ sở khoa học. Trong xã hội hiện đại ngày nay, tôn giáo đang trở thành một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo luôn biến động phản ánh sự biến đổi của lịch sử nhân loại. Thực tế đã chứng minh rằng, một tôn giáo cụ thể ở một quốc gia nhất định có thể suy tàn, hưng thịnh hoặc mất đi, song nhìn chung từ khi ra đời cho đến nay, tôn giáo luôn tồn tại trong xã hội loài người. Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, nhưng lại liên quan và luôn ảnh hưởng khá sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, tác động đến văn hoá, đạo đức, kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Việt Nam là đất nước đa tôn giáo, mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng từ bi, hỉ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời, phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Đạo Phật đã trở thành một trong những hệ tư tưởng - tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần con người Việt Nam trong lịch sử. Theo cuốn Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam của tác giả Phùng Hữu Phú chủ biên có ghi: nhìn nhận lực lượng Phật giáo, Hồ Chí Minh đánh giá: “Tín đồ Phật giáo chiếm 3/4 nhân dân Việt Nam” [55, tr.24].
Phật giáo Việt Nam luôn gắn liền vận mệnh đất nước, thăng hoa cùng dân tộc trong mọi hoàn cảnh và trải qua mọi thời đại. Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo có truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc. Bên cạnh đó, văn hoá Phật giáo là một bộ phận không thể tách rời văn hoá dân tộc. Đạo Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo của nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn hoá dân tộc.
Mỗi một tôn giáo, để trở thành một tôn giáo đích thực đều phải giải đáp câu hỏi: Thế giới này (kể cả tự nhiên và xã hội) là gì? Do đâu mà có? Vận hành theo những quy luật nào? Đằng sau cái thế giới hữu hình này là cái gì? Có nhận thức được không?...
Phật giáo với cái đích là cứu con người thoát khỏi nỗi khổ muôn đời, với cứu cánh là giải thoát. Nhìn bề ngoài, nó chủ yếu bàn về nhân sinh, nhưng để cho những quan niệm nhân sinh này tồn tại một cách vững chãi, trải dài hơn 2500 năm thì chúng phải dựa trên một cơ sở triết học, một nền tảng lý luận, thế giới quan vô cùng sâu sắc. Chính vì vậy, mà Phật giáo mang đậm tính triết học hơn bất kỳ một tôn giáo nào khác.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay, do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với các học thuyết tư tưởng và tôn giáo, đạo Phật đã có những biến chuyển mạnh mẽ cùng với sự chuyển mình lớn lao của đất nước.
Việc đứng trên lập trường triết học Mác - Lênin để nghiên cứu thế giới quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay, chỉ ra những yếu tố tích cực, phát hiện những giá trị tinh tuý của nó cũng như những mặt hạn chế của nó chính là một việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận cũng như về mặt thực tiễn. Với tầm quan trọng và ý nghĩa như vậy, học viên mạnh dạn chọn vấn đề: “Thế giới quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam là một đề tài rộng lớn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu và đạt được những kết quả đáng trân trọng. Có thể kể ra một số công trình sau đây:
- Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam của Viện Triết học, Hà Nội, 1986;
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Viện Triết học, Hà Nội, 1991;
- Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), NXB khoa học xã hội, 1993;
- Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông của Nguyễn Hùng Hậu, NXB Khoa học xã hội, 1996;
- Thiền học Trần Thái Tông của Nguyễn Đăng Thục, NXB Văn hoá thông tin, 1996;
- Tôn giáo, tín ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, Trung tâm thông tin tư liệu - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996;
- Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997;
- Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam của Nguyễn Hùng Hậu, NXB Khoa học xã hội, 1997;
- Tư tưởng Triết học của thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Trung, NXB Chính trị quốc gia, 1998;
- Ảnh hưởng của tư tưởng Triết học Phật giáo trong đời sống văn hoá tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998;
- Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999;
- Phật giáo với văn hoá Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, NXB Hà Nội, 1999;
- Nhân sinh quan Phật giáo và sự thể hiện của nó ở một số tín đồ Đạo Phật hiện nay (qua quan sát một số Chùa ở Hà Nội) của Nguyễn Thị Hảo, luận văn Thạc sĩ Triết học, Viện Triết học, 2000;
- Đại cương Triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Hùng Hậu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002;
- Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay của Mai Thị Dung, luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003;
- Truyền thống văn hoá và Phật giáo Việt Nam của Minh Chi, NXB Tôn giáo, 2003;
- Bàn thêm về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay của Lê Văn Đính, Tạp chí Tôn giáo, số 10 - 2007;
- Vai trò của Phật giáo Việt Nam hiện nay của Nguyễn Khắc Đức, Tạp chí Tôn giáo, số 7 - 2008;
- Ý nghĩa xã hội và nhân văn cao cả của Phật giáo của Trần Đình Hà, Tạp chí Tôn giáo, số 10 - 2008;...
Nhìn chung, có thể nhận xét một cách khái quát các công trình nghiên cứu trên đều khẳng định Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội Việt Nam, đặc biệt là đời sống tinh thần. Những triết lý đầy tính nhân sinh của Phật giáo kết hợp với văn hoá truyền thống, đã tạo nên sự phong phú của đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Các công trình nghiên cứu nói trên, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở từng khía cạnh và mức độ xem xét khác nhau, đã thể hiện tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu làm sáng tỏ có tính hệ thống thế giới quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay thì cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học chuyên khảo nào trực tiếp nào đề cập đến. Các công trình trên là những tài liệu quý, hết sức có giá trị là cơ sở để học viên tiếp thu và kế thừa những thành quả nghiên cứu của những người đi trước. Vì vậy, luận văn này, từ góc độ triết học đi sâu nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về tư tưởng thế giới quan Phật giáo, từ đó tìm hiểu ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm rõ thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu có liên quan và có ảnh hưởng rõ nét đối với một số mặt trong đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu (về thế giới, về con người và về cuộc đời con người) .
- Phân tích ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với một số mặt trong đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thế giới quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn không đi vào nghiên cứu tất cả nội dung thế giới quan của các tông phái trong mọi giai đoạn phát triển của Phật giáo, kể cả thế giới quan của Phật giáo Việt Nam, cũng không đề cập đến ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo trong mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần con người Việt Nam. Luận văn chỉ đi vào nghiên cứu thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu (về thế giới, về con người và về cuộc đời con người). Từ đó, tìm hiểu ảnh hưởng của chúng đối với một số lĩnh vực đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với một số phương pháp phân tích và tổng hợp; lôgíc và lịch sử; phương pháp so sánh và đối chiếu…
Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc làm rõ thế giới quan Phật giáo trên những nội dung chủ yếu và ảnh hưởng của nó đối với một số mặt của đời sống tinh thần con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn bước đầu đưa ra đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thế giới quan Phật giáo cũng như tác dụng của nó đối với đời sống tinh thần con người Việt Nam hiện nay.
- Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy tôn giáo, liên quan đến tôn giáo ở các trường Cao đẳng, Đại học và những ai quan tâm tìm hiểu về Phật giáo nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1
THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
1.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO
Ấn Độ là một bán đảo lớn - một “tiểu lục địa” nằm ở miền Nam châu á trông gần giống một tam giác cân mà đáy giáp Đại Tây Dương, một cạnh bên giáp biển Ấn Độ Dương, còn cạnh kia án ngữ bởi dãy Himalaya hùng vĩ dài tới 2.600 km, trong đó có đến bốn mươi ngọn cao trên bảy cây số. Theo tiếng Phạn (Sanskrit) chữ Himalaya có nghĩa là “xứ sở của tuyết”. Người Ấn Độ cổ cho đây là nóc nhà của thế giới, nơi ngự trị của các đấng thần linh, nơi chứa đựng nguyên khí của trời đất. Như vậy, Ấn Độ là một tiểu lục địa khép kín, ngăn cách hoàn toàn với châu Á.
Điều kiện thiên nhiên và khí hậu của Ấn Độ rất phức tạp. Địa hình vừa có nhiều núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù phú; có vùng khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá tuyết phủ quanh năm, lại cũng có những vùng sa mạc, khô khan nóng nực như thiêu như đốt, nơi thì lũ lụt, nơi thì gió cát bụi mù mịt,... Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí người Ấn Độ cổ, phần nào cũng phản ánh sự đa dạng trong triết học Ấn Độ .
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới. Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công Nguyên (tr.CN) thuộc miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy núi Himalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nê Pan bây giờ. Sự ra đời của thế giới quan Phật giáo căn bản bị chi phối bởi chính hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội của đất nước Ấn Độ cổ đại.
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Ấn Độ cổ đại là một quốc gia có lịch sử lâu đời và có nền văn minh sớm phát triển, đạt đến trình độ rực rỡ. Chủ nhân chính của nền văn minh Ấn Độ cổ đại là người bản địa Đravida và người châu Âu nhập cư - Aryan từ Trung Á tới vào khoảng 2000 năm tr.CN. Trải qua nhiều xung đột với người bản địa, người Aryan đã chiến thắng. Lúc đầu họ sống ở vùng thượng lưu sông Ấn, sau đó di chuyển về hướng Đông và dần dần định cư ở lưu vực sông Hằng. Quá trình hỗn dung về dòng máu và văn hoá đã tạo điều kiện cho việc xây dựng nơi đây thành một trung tâm kinh tế, chính trị văn hoá - xã hội của Ấn Độ.
Từ thế kỷ VI tr.CN đến thế kỷ I tr.CN, chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính chất gia trưởng kiểu phương Đông đã khá phát triển ở Ấn Độ . Trong thời kỳ này nền kinh tế, xã hội, văn hoá Ấn Độ đã có những bước tiến bộ vượt bậc. Công cụ bằng đồ sắt rất phổ biến. Trên cơ sở mở mang các công trình thuỷ lợi, khai khẩn đất đai, trồng các loại ngũ cốc, nông nghiệp phát triển mạnh. Nghề thủ công cũng rất phát đạt, nhất là nghề dệt bông, đay, tơ lụa, nghề luyện sắt, nghề làm đồ gỗ, gốm sứ và nghề làm đồ trang sức. Mặc dù nền kinh tế tự nhiên vẫn còn chiếm phần ưu thế, nhưng thương nghiệp, buôn bán cũng phát triển đã hình thành một tầng lớp mới trong cơ cấu giai cấp xã hội Ấn Độ - tầng lớp thương nhân và thợ thủ công. Tiền tệ kim loại xuất hiện. Nhiều thành phố trở thành trung tâm công thương nghiệp quan trọng. Nhiều con đường thương mại thuỷ bộ nối liền các thành thị với nhau và thông thương từ Ấn Độ qua các nước như Trung Hoa, Ai Cập và các miền Trung Á... dần dần xuất hiện.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ Ấn Độ, ngoài đặc trưng của chế độ đẳng cấp, sự tồn tại dai dẳng của những công xã nông thôn với lao động của người dân công xã là chủ yếu, thì chế độ nô lệ kiểu gia trưởng và nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, trong đó các đế vương nắm quyền lực vô hạn về sở hữu ruộng đất và thần dân cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới tính chất và sự phát triển khắc nghiệt của tự nhiên và chế độ đẳng cấp, thể chế xã hội luôn đè nặng lên đời sống của người dân Ấn Độ. Đó là chế độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo, quan hệ giao tiếp, tục cấm kỵ hôn nhân… Theo thánh điển Bàlamôn và bộ luật Manou người ta phân biệt trong xã hội Ấn Độ rất nhiều chủng tính khác nhau, nhưng có thể quy định thành bốn chủng tính lớn và đó là bốn đẳng cấp lớn của Ấn Độ cổ đại. Trước khi Phật giáo ra đời, xã hội tồn tại bốn đẳng cấp sau:
Thứ nhất, đẳng cấp Brahman - na (Bàlamôn) gồm: tăng lữ hay tu sĩ những người chuyên làm công việc cúng tế thần, chuyên nghiên cứu giảng dạy thánh kinh, họ nắm quyền thống trị về mặt tinh thần, chiếm địa cao nhất trong xã hội Ấn Độ. Đẳng cấp này có đặc quyền về xã hội và chính trị, được tôn làm “Thần của nhân gian”.
Thứ hai, đẳng cấp Kshatriya (Sát đế lợi) gồm: vua chúa, vương công, tướng lãnh, võ sĩ; họ nắm giữ quyền thống trị về mặt kinh tế, xã hội, cai trị và thâu tóm ruộng đất và được coi là người bảo hộ của nhân dân.
Thứ ba, đẳng cấp Vaishya (Vệ xá) gồm: thương nhân, điền chủ, và những người trong nghề thủ công. Đẳng cấp này là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất cho xã hội và có nghĩa vụ phải nộp thuế.
Thứ tư, đẳng cấp Shudra (Thủ đà la) gồm: những người lao động bình thường, nô lệ. Đẳng cấp này phục tùng những đẳng cấp trên.
Ngoài bốn đẳng cấp trên, còn có những người bị coi là ngoài lề đẳng cấp xã hội, đó là tầng lớp hạ tiện nhất gọi là Ba-lị-xá gồm những người cùng khổ dưới đáy xã hội. Họ bị các đẳng cấp trên đối xử như thú vật, cuộc sống vô cùng khổ nhục, tối tăm.
Trong các đẳng cấp trên, đẳng cấp Brahman-na và Kshatriya là giai cấp thống trị; đẳng cấp Vaishya và Shudra thuộc giai cấp bị trị. Bốn đẳng cấp này theo chế độ thế tập, cha truyền con nối ở đẳng cấp nào thì đời đời vẫn ở đẳng cấp ấy.
Một xã hội bất bình đẳng như thế làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, nhất là khi đẳng cấp thống trị giàu có sinh ra trụy lạc, pháp luật không còn được tôn trọng. Tình hình xã hội Ấn Độ thời bấy giờ đã chín muồi một cuộc đấu tranh nhằm lật đổ những giai cấp thống trị, áp bức bóc lột. Đây là cơ sở xã hội quan trọng làm cho thế giới quan Phật giáo - với tư cách là một trào lưu tư tưởng chống lại sự “nghèo nàn hiện thực” - đưa ra chủ trương thực hiện “bình đẳng xã hội” của mình, kiến lập một chế độ xã hội công bằng hơn.
1.1.2. Văn hoá - tư tưởng
Tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I tr.CN, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo giải thích vũ trụ bằng các biểu tượng các vị thần mang tính chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối cổ của nhân loại - totemisme và tín ngưỡng vật linh - animisme.
Ngay từ thế kỷ XV tr.CN đã xuất hiện bộ kinh Veda là bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ và cũng là của nhân loại. Về nguồn gốc lịch sử, Veda không phải do một nhân vật nào sáng tác, nó là một bộ sách thâu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh phú, những tư tưởng quan điểm, những tập tục lễ nghi… của nhiều bộ lạc người Aryan ở nhiều địa phương dọc theo sông Ấn, sông Hằng và chân núi Hymalaya. Một thời gian dài các bộ kinh ấy đã được truyền khẩu từ thế hệ này qua thế hệ khác. Khoảng năm 1000 đến năm 800 tr.CN nó mới được sưu tập chép lại bằng một thứ tiếng Phạn cổ, gọi là thánh kinh Veda. Veda gồm có 4 bộ là Rig Veda, Sama Veda, Yajur Veda, Artha Veda và được chia làm ba phần là Brahmana (8 cuốn), Aranyaka (4 cuốn) và Upanishad (13 cuốn). Nhìn chung, những tư tưởng triết học của Veda còn thô sơ, mộc mạc, chất phác.
Đến thời kỳ 800 - 600 năm tr.CN tư tưởng triết học Upanishad hình thành. Upanishad là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Veda. Nó là những lời bình giải tôn giáo triết học cổ Ấn Độ về các lẽ thiết yếu, về các ý nghĩa triết lý sâu xa của các bài kinh, các nghi lễ cũng như các bản thần thoại Veda bởi các tông phái, các đạo sĩ trong những hoàn cảnh, địa phương khác nhau. Sự xuất hiện của Upanishad được coi là “bước nhảy” hoàn toàn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo sang tư duy triết học.
Xu hướng chính của Upanishad là nhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn giáo trong kinh Veda về cái gọi là “Tinh thần sáng tạo tối cao” sáng tạo và chi phối thế giới này. Lập luận của đa số các trường phái triết học duy tâm sau này đều xuất phát từ tư tưởng triết học của Upanishad. Những trường phái này tìm thấy trong đó uy thế tối cao của mình - uy thế mà họ cho là không có nguồn gốc từ hiện thực, mà là sự linh báo thần linh.
Trả lời câu hỏi, cái gì là thực tại cao nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát được linh hồn khỏi sự lo âu khổ não của đời sống trần tục và sự rằng buộc của thế giới hiện tượng biến ảo, vô thường. Upanishad đã đưa ra một cách giải đáp duy tâm rằng: bản nguyên của thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman (đại ngã), là thực thể duy nhất có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh và nhập về với nó sau khi chết. Linh hồn con người (Atman - tiểu ngã) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của “tinh thần tối cao”. Cơ thể, nhục thể chỉ là cái “vỏ bọc” của linh hồn, là nơi trú ngụ của linh hồn, hiện thân của “tinh thần tối cao”, tuyệt đối bất tử Brahman và là tia nắng của ánh nắng mặt trời. Nên về bản chất linh hồn là đồng nhất với “linh hồn tối cao”. Trong vũ trụ, từ cái vô cùng lớn đến cái vô cùng nhỏ, đều là sự biểu hiện của một cái tối cao, tuyệt đối, duy nhất Brahman.
Vì Atman - linh hồn, tiểu ngã là cái tồn tại trong thể xác con người ở đời sống trần tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là cái khác với “linh hồn vũ trụ”, khác với nguồn sống không có sinh, không có diệt của vũ trụ. Những ý chí, cảm giác, ham muốn dục vọng và hành động của con người nhằm thoả mãn những ham muốn đó trong đời sống trần gian đã gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau, gọi là nghiệp báo (karma). Do vậy linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác này đến thể xác khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh, gọi là sự luân hồi (samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản của mình là Brahma được. Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của nghiệp báo, luân hồi, thoát khỏi sự chi phối của đời sống nhục dục, của thế giới hiện tượng cảm tính như ảo ảnh (maya), thường biến, để đạt tới sự đồng nhất với “Tinh thần vũ trụ tối cao, tuyệt đối” con người phải dốc lòng, toàn tâm tu luyện hành động và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình, khi đó linh hồn bất tử mới đồng nhất được với “Linh hồn vũ trụ tối cao”, bắt đầu siêu thoát (moska).
Chính vì nội dung triết lý phong phú ấy mà Upanishad đã trở thành nguồn gốc của hết thảy các quan điểm và hệ thống triết học Ấn Độ sau này; đồng thời, chỉ ở đó mới bắt đầu có những câu hỏi và những lời giải đáp có tính chất triết học. Không những thế, triết học duy tâm tôn giáo của Upanishad đã đóng vai trò là cơ sở lý luận cho đạo Bàlamôn cũng như đạo Hinđu ở Ấn Độ cổ đại. Kinh Upanishad đã đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự như mối quan hệ giữa tinh thần vũ trụ (Brahman) và linh hồn cá thể (Atman), thuyết luân hồi, nghiệp, nhân quả...
Tóm lại, thế giới quan thần thoại, tín ngưỡng tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm trong thánh kinh Veda, kinh Upanishad và đạo Bàlamôn đã trở thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội Ấn Độ cổ. Uy thế của nó mạnh mẽ tới mức, tư tưởng triết lý duy tâm ấy được mệnh danh là tư tưởng chính thống của xã hội Ấn Độ cổ và tất cả những môn phái triết học vô thần, duy vật, chống lại uy thế kinh Veda và triết lý tôn giáo Bàlamôn đều bị coi là những tư tưởng triết học không chính thống. Sự thống trị khắc nghiệt về xã hội, chính trị, tư tưởng trên đã làm nảy sinh những mâu thuẫn sâu sắc trong đời sống xã hội và tất yếu dẫn đến sự phản kháng của quần chúng lao động đòi hỏi một sự tự do, công bằng, bình đẳng xã hội. Đây chính là những nhu cầu của hiện thực lịch sử làm xuất hiện các trường phái tư tưởng mới ở Ấn Độ trong thời kỳ này. Cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến đỉnh cao. Thế giới quan Phật giáo xuất hiện chính trong bối cảnh lịch sử trên với tư cách là một hệ tư tưởng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn về chế độ đẳng cấp khắt khe, về học thuyết linh hồn bất tử và thần tạo vật, phủ nhận uy thế của kinh Veda, bác bỏ uy quyền thần thánh, lý giải căn nguyên của nỗi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ Ấn Độ. Nó là sự khẳng định một đạo lý, một đường hướng cứu khổ mới cho con người. Trong triết học Ấn Độ cổ đại, hệ thống triết học được chia ra thành hai phái chính: phái triết học chính thống (Astika) thừa nhận uy thế tối cao của kinh Veda, đạo Bàlamôn; Phật giáo thuộc phái triết học không chính thống (Nastika) bác bỏ uy thế của kinh Veda và đạo Bàlamôn.
1.1.3. Vai trò người sáng lập thế giới quan Phật giáo
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Thích ca Mâu ni (Sakyamuni), có tên thật là Siddhartha (Tất Đạt Đa), họ Cồ Đàm (Gautama) vương tộc Thích Ca (Sakya), là thái tử con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Mada, trị vì một xứ nhỏ ở miền bắc Ấn Độ, trung lưu sông Hằng là Ca tỳ la vệ (Kapilavastu). Ông sinh ngày 15- 4 (có sách ghi 8- 4) năm 563 tr.CN (Phật lịch cho là 544 tr.CN) tại vườn Lumbini thuộc kinh thành Kapilavastu (hiện nay thuộc về nước NêPan).
Trong những kinh sách sau công nguyên thuật lại sự tích của Ngài cho là Ngài sinh tại vườn Lumbili nay thuộc nước NêPan. Bà Mada mơ thấy một con voi trắng đầu thai mà sinh ra Ngài. Ngài sinh ra từ nách mẹ, sinh ra bèn đi 7 bước, một tay chỉ trời một tay chỉ đất nói: Thiên thượng địa hạ duy ngã
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc